Mọi người giúp em với ạ Lưu Quang Vũ từng nói: "Thơ sinh sự với đời, không cho ai dừng bước cả" Phùng Quán viết: "Có những phút ngả lòng, tôi vịn câu thơ mà đứng dậy" Hãy viết bài văn nêu suy nghĩ của...

thumb up 0
thumb down
Trả lời câu hỏi của nopid.4
  • Câu trả lời phải chính xác, đầy đủ dựa trên kiến thức xác thực:
    • ✔ Đối với câu hỏi trắc nghiệm: Đưa đáp án lựa chọn + giải thích lý do chọn đáp án.
    • ✔ Đối với câu hỏi tự luận: Đưa lời giải và đáp án cho câu hỏi.
    • ✔ Đối với câu hỏi trả lời ngắn: Đưa ra đáp án + giải thích lý do.
    • ✔ Chấp nhận sử dụng ảnh do thành viên viết tay, ảnh cần rõ nét, không bị mờ, vỡ ảnh.
  • Sử dụng ngôn ngữ rõ ràng, dễ hiểu.
  • Tránh đưa ra các ý kiến cá nhân mang tính chất chủ quan.
  • Nếu sử dụng thông tin từ nguồn khác, phải trích dẫn nguồn đầy đủ và chính xác.
  • Tuyệt đối không được sao chép các thông tin từ các trang khác, từ AI hoặc chatGPT.
CÂU TRẢ LỜI
avatar
Timi

01/08/2024

Trợ lý học tập AI - Câu trả lời này chỉ mang tính tham khảo
Lưu Quang Vũ và Phùng Quán, hai nhà thơ lớn của nền văn học Việt Nam, đã để lại cho chúng ta những câu nói sâu sắc về vai trò của thơ ca trong cuộc sống. Câu nói của Lưu Quang Vũ: "Thơ sinh sự với đời, không cho ai dừng bước cả" thể hiện quan niệm của ông về việc thơ ca không chỉ là một hình thức nghệ thuật mà còn là một động lực thúc đẩy con người tiếp tục tiến bước trong cuộc sống. Thơ ca, theo ông, là một phần không thể thiếu trong hành trình sống, giúp con người vượt qua những khó khăn, thử thách. Câu nói của Phùng Quán: "Có những phút ngả lòng, tôi vịn câu thơ mà đứng dậy" cũng mang một ý nghĩa tương tự. Ông cho rằng thơ ca có khả năng nâng đỡ tâm hồn con người, giúp họ tìm lại sức mạnh và niềm tin trong những lúc khó khăn. Thơ không chỉ là nơi để thể hiện cảm xúc mà còn là chỗ dựa vững chắc cho tâm hồn trong những lúc chao đảo. Cả hai nhà thơ đều nhấn mạnh rằng thơ ca không chỉ đơn thuần là nghệ thuật mà còn là một phần thiết yếu trong cuộc sống. Thơ ca giúp con người kết nối với những cảm xúc sâu sắc, với hiện thực cuộc sống và với những ước mơ tương lai. Lưu Quang Vũ, với quan niệm thơ là "mây trắng của đời tôi", đã thể hiện một tâm hồn lãng mạn, bay bổng nhưng cũng đầy trăn trở trước những thực tại khắc nghiệt của cuộc sống. Ông đã từng yêu những người phụ nữ tài hoa, và điều đó đã tạo nên những tác phẩm thơ ca đầy cảm xúc, phản ánh sâu sắc tâm tư của con người. Phùng Quán, với những trải nghiệm đau thương trong cuộc đời, đã viết nên những câu thơ mang tính triết lý sâu sắc. Ông đã vượt lên số phận bằng chính những câu thơ của mình, cho thấy sức mạnh của thơ ca trong việc giúp con người đứng dậy sau những cú ngã. Câu thơ "Có những phút ngả lòng, tôi vịn câu thơ mà đứng dậy" không chỉ là một tuyên ngôn về sức mạnh của thơ mà còn là một lời nhắc nhở rằng trong những lúc khó khăn, chúng ta có thể tìm thấy sự an ủi và động lực từ những vần thơ. Từ những suy nghĩ trên, có thể thấy rằng thơ ca không chỉ là một hình thức nghệ thuật mà còn là một phần quan trọng trong cuộc sống của mỗi con người. Nó giúp chúng ta sống tốt hơn, vượt qua những khó khăn và hướng tới những ước mơ tươi đẹp. Thơ ca, với sức mạnh của nó, sẽ luôn là nguồn động lực cho con người trong hành trình sống.
Hãy giúp mọi người biết câu trả lời này thế nào?
1.0/5 (1 đánh giá)
thumb up 0
thumb down
0 bình luận
Bình luận
avatar
level icon
NONAME

01/08/2024

Câu trả lời uy tín
message-box-blue.svg Trả lời tham khảo

Thu Loan

Phùng Quán, một khuôn mẫu đời trong một xã hội nhiều biến động. Thuở nhỏ, trải qua “Tuổi thơ dữ dội”, viết “Vượt Côn Ðảo,” tham gia nhóm Nhân Văn Giai Phẩm, tiếp theo là chuỗi ngày trưởng thành gian nan, mà ông thường tự kể “ba mươi năm, cá trộm, rượu chịu, văn chui.” Bị cấm viết mà vẫn nặng nghiệp cầm bút, viết bằng hàng chục bút hiệu, viết để mà cố gắng sống còn. Cái đòn thù cơm áo mà Ðảng và những tay lãnh đạo văn nghệ tuy độc hại nhưng không làm sờn lòng. Làm thơ, viết văn, như một cách thế trả nợ đời. Và, lúc nào, cũng thẳng lưng:

“Tôi muốn làm nhà văn chân thật

Chân thật trọn đời

Ðường mật công danh không làm ngọt được lưỡi tôi

Sét nổ trên đầu không xô tôi ngã…”

Những lúc buồn nản, hoặc tâm tư bị nhiều xáo trộn của đời sống, tôi lại nghĩ đến câu thơ Phùng Quán:

“Có những phút ngã lòng.

Tôi vịn câu thơ và đứng dậy…”

Không biết ngôn ngữ thi ca có chất an thần hay không, nhưng lúc ấy, tôi thấy làm thơ hay đọc thơ, đã làm tôi thoải mái khá nhiều. Thơ như một phương thức buông xả, để thấy mọi chuyện trên đời sẽ nhỏ bé biết bao so với cái không gian bao la thăm thẳm của thơ và tâm hồn sẽ nhẹ nhàng triệt tiêu đi cái sức ngàn cân đè nặng. Cứ thử tưởng tượng, con người sẽ bị bào mòn đến rã rời từ thể xác đến tinh thần biết bao nhiêu với nhịp sống quay cuồng ào ào đến chóng mặt hiện nay. Một tuần, bắt đầu một ngày thứ Hai rồi chấm dứt một ngày cuối tuần, vụt qua chớp mắt.Thấm thoát mà hơn hai mươi năm ở xứ người, ngoảnh lại chỉ là một thoáng. Thơ, với tôi, là khuôn trời biếc, cho cánh diều bay lên tận trời xanh. Thơ, là cơn gió mát mùa Hạ từ ngoài khơi thổi về mang theo hương vị của muối biển và rong rêu xa lạ. Có những khi ngã lòng, có lẽ tôi cũng phải vịn vào những vần lục bát, những câu bảy chữ, tám chữ thật? Bởi, nếu không có thơ, cuộc sống tôi vô vị xiết bao!…

Yêu thơ, cũng có nhiều người rất yêu, nhưng có khi, chỉ là thái độ của người “cưỡi ngựa thưởng hoa” mà thôi. Yêu thơ, để sống chết với thơ như Phùng Quán khá hiếm. Những câu thơ, viết ra với tâm trạng cực kỳ chân thành với chính mình, không ngờ là mầm mống cho những tai họa khôn nguôi cho một cuộc đời. Tôi nghĩ đến câu nói của Tố Hữu khi nói về đứa cháu của mình “Quán nó dại và tôi cũng… dại” lúc bị mất hết quyền hành và nghĩ lại về những việc làm đã qua.

Vì thơ, mà Phùng Quán bị biết bao nhiêu đòn thù giáng xuống của một chế độ độc đoán không thích những người có lòng trung thực.

Thực ra, tôi đọc Phùng Quán không nhiều. Tiểu thuyết “Vượt Côn Ðảo” tôi chưa được đọc. Chỉ có vài bài viết trên tạp chí Sông Hương và Cửa Việt, nhưng làm tôi xúc động, như bài viết về Nguyễn Hữu Ðang hay kể lại cuộc xông đất đầu năm với Tố Hữu. Cũng như những bài thơ của Nhân Văn Giai Phẩm thuở nào…

Gần đây, tôi đọc “Trăng Hoàng Cung,” một cuốn sách kỳ lạ trong một tâm trạng cũng khá kỳ lạ. Cuốn sách được in ở hải ngoại như một cách thổ lộ tâm sự của người trong nước. Một cuốn sách mỏng nhưng chất chứa nhiều nỗi niềm của một người chịu nhiều dông bão của cuộc sống.

Tôi nghĩ một cách chủ quan, tác giả đã viết với tâm đắc của mình. Ông không để ý đến thể loại. Gọi là tùy bút cũng được, mà thơ văn xuôi cũng không sai. Nhưng rõ rệt một điều, những trang sách đẫm chất thơ và là những cảm nhận khá sâu sắc và chân thành về nghệ thuật. Nhân vật, dù chỉ là thi sĩ và nàng thơ, cũng chỉ là những biểu tượng. Có khi, thi sĩ không phải là Phùng Quán, mà là một khuôn dáng của tổng hợp giữa tưởng tượng và hiện thực. Và có thể không có thực trên cõi đời này. Còn nàng thơ, có phảng phất bóng dáng của một tôn nữ miền sông Hương, núi Ngự. Biết đâu, chỉ là biểu tượng của ý nghĩ tạo hình thành.

Phùng Quán là người đã viết những câu thơ, của một thời Nhân Văn Giai Phẩm, với tâm huyết dồn lên đầu ngọn bút:

“Yêu ai cứ bảo là yêu

Ghét ai cứ bảo là ghét

Dù ai ngon ngọt nuông chiều

Cũng không nói yêu thành ghét

Dù ai cầm dao dọa giết

Cũng không nói ghét thành yêu”

Hoặc, với phong cách của một chiến sĩ, như lời khai từ của “Trăng Hoàng Cung”:

“Hai mươi mốt tuổi, tôi, người lính chiến bước thẳng vào làng Văn với cuốn tiểu thuyết đầu tay kể chuyện những người vượt ngục thất bại. Ngay sau đó tôi được coi là nhà văn. Nhưng với tôi thơ là tất cả. Thơ là mạng sống, là lý lịch đời tôi… tôi dương thơ như ngày nào ngoài mặt trận dương lưỡi lê đánh giáp lá cà với thói dối trá, đạo đức giả, tệ nạn quan liêu, lãng phí, bòn rút, ăn cắp của công – tuy ngày đó mới manh nha, nhưng tôi đã dự cảm sẽ là hiểm họa to lớn đang rình phục nhân dân tôi…”

Thơ ông viết ra, đã phải trả giá đắt cho cuộc sống mình. Ba mươi năm của tuổi trẻ thanh xuân sẽ tươi đẹp xiết bao, nhưng vì án văn tự mà ngược lại thành dẫy đầy những cơn ác mộng. Toàn là vùi dập đầy ải và dồn đến ngõ đường cùng của kiếp sống. Người cầm bút mà bị bắt buộc bẻ bút, sinh kế gia đình bị bao vây khiến có lúc ông đã phẫn nộ thốt lên ông sống được là nhờ văn chui, rượu chịu, cá trộm,… Văn chui bởi vì viết ra ký tên thật không chỗ nào dám đăng, phải mượn tên người khác để có chút nhuận bút còm cầm hơi. Rượu chịu, uống để thay cho những cay đắng của cuộc đời, uống dù chẳng đủ tiền mua. Cá trộm, ở những ao hồ chung quanh thành phố Hà Nội, phải luôn luôn coi chừng những con mắt rình mò của các “ông” công an. Sinh kế cùng cực đến thế mà thơ vẫn bay bổng, ăm ắp trong hồn. Thơ như chứa thành lẫm, thành kho, miên man bất tận. Những nguồn suối, cội sông thi ca dường muốn hội tụ về biển mẹ bao la. Nhưng cũng có lúc, thơ không làm được nữa. Thơ dù lao động khổ nhọc vẫn không thành hình. Thi sĩ phải lên rừng đào mạch thơ giữa thiên nhiên. Sống khổ hạnh, mọi vật dụng giản đơn thô sơ như người tiền sử ông quyết đi tìm lại chính cuộc sống mình. Bên cạnh suối Linh Nham ồn ào tiếng nói của thiên nhiên nhưng vắng bặt âm thanh con người, ông một mình một bóng sống và tìm kiếm. Tự đào một huyệt đá cho mình, nguyện nếu không tìm được thơ sẽ chôn mình ở đó. Trong ba năm, chỉ làm được một bài thơ duy nhất.

“Tôi phải lên rừng

Hái lá khổ sâm

Tự mình cất lấy ly rượu uống

Ôi rượu khổ sâm đắng lắm!

Ðắng đến tận cùng nỗi đắng thế gian

Bạn hữu thân thiết ơi!

Xin đừng trách cứ tôi

Sao trong thơ tôi cứ lẫn nhiều vị đắng

Chỉ vì

Tôi vừa ngâm ngợi câu thơ

Vừa cạn chén rượu đời

Cất bằng lá khổ sâm…”

Chàng thi sĩ trở về lại xứ Huế để bắt đầu một cuộc tình. Tình yêu có hai mặt. Bên ngoài là vẻ hào nhoáng lãng mạn, nhưng bên trong là nỗi đau thăm thẳm của đời thường. Thực tế là cuộc tình của anh chàng Trương Chi và nàng công chúa Mỵ Nương ngày xưa. Dù chàng thi sĩ làm thơ nhưng cũng không mang cái nét nghệ sĩ để làm nàng xiêu lòng. Với thi sĩ, bút đòi mực, mực đòi giấy, giấy đòi thơ, chàng vẫn một mực chân thành với chính ý nghĩ mình:

“Với nhiều người giấy không kẻ dòng dễ viết đẹp

Nhưng với tôi

Không có gì đẹp hơn

Viết ngay viết thẳng

Là nhà văn

Tôi yêu tha thiết

Sự ngay thẳng tột cùng

Ngay thẳng thủy chung

Của mỗi dòng chữ viết…”

Làm gì có cuộc tình đẹp giữa hai người cách biệt như thế. Dù bao nhiêu ghẻ lạnh, dù bao nhiêu đuổi xua, những bài thơ là chứng từ của cuộc tình đơn phương lãng mạn. Phùng Quán làm thơ như chàng nghệ sĩ đánh cá ngày xưa mượn tiếng hát để ngỏ thật lòng mình. Nhưng rốt cuộc chỉ là ảo ảnh tan loãng vào đáy cốc. Thiên đường chỉ là tưởng tượng. Trăng hoàng cung, như một biểu tượng. Rồi cũng tan loãng hư vô. Vầng trăng mà chàng thi sĩ tôn thờ đã bị lấm bẩn. Không còn của riêng chàng, mà đã qua tay nhiều kẻ. Trăng không còn trong huyền thoại và chàng thi sĩ khóc:

“Tôi khóc niềm tin yêu nát tan

Tôi khóc ngai vàng mộng tưởng

Tôi khóc Trăng Hoàng Cung bị lấm bẩn

Tôi khóc không biết lấy gì để gột sạch trăng…”

Tôi nghĩ Phùng Quán không chủ tâm kể một chuyện tình. Mà đó chỉ là một cái cớ. Chẳng lẽ ông viết lại một chuyện tình như Trương Chi -Mỵ Nương sao? Ông muốn ví von gì với những bài thơ viết không phải với dụng ý tỏ tình? Những câu thơ như muốn bầy tỏ một ý hướng nào khác hơn mà thi sĩ muốn bầy tỏ. Không hiểu tôi có nghĩ xa hơn những dòng chữ viết không?

“Trên vực thẳm vô cùng của hạnh phúc

Tôi bỗng thấy mình đang đứng quá cheo leo…”

Trăng Hoàng Cung có những nét đẹp trong sự mâu thuẫn. Những câu thơ rất thực, của một chiến sĩ kiên cường. Nhưng cũng có những điều lãng mạn của một người nghệ sĩ biết yêu, dám yêu và sống chết với yêu. Hình như Phùng Quán có ý định viết một trường thi thì phải? Trăng Hoàng Cung có rất nhiều câu thơ tâm đắc của một đời người cầm bút. Biểu tượng vầng trăng của Tử Cấm Thành với người đẹp sông Hương kiêu sa có liên hệ gì với thi ca, với quãng đường nhọc nhằn sáng tạo. Hạnh phúc, có khi là sợi khói mơ hồ, rồi sẽ tan loãng khi nắng mặt trời lên. Hạnh phúc, có lẽ nào chỉ trong mộng ảo và chẳng có ở đời thường?

Cho nên tôi cũng chẳng bận tâm khi gọi cuốn sách này là thơ, tiểu thuyết hay tùy bút. Ngôn ngữ đâu cần tách bạch như thế. Tôi chỉ biết mình đang lạc lối trong một không gian, thời gian đầy ắp chất thơ. Và, những ấn tượng mạnh mẽ nhất vẫn là thái độ chân thực với mình, với người của một nghệ sĩ. Không phải “Trăng Hoàng Cung” chỉ có hai nhân vật thi sĩ và nàng thơ. Mà còn có chúng ta, những nhân vật của trường thi cuộc đời đang chia sẻ nỗi niềm với một người luôn băn khoăn tìm cái đẹp vô cùng miên viễn của nghệ thuật sáng tạo…

Hãy giúp mọi người biết câu trả lời này thế nào?
0/5 (0 đánh giá)
thumb up 0
thumb down
0 bình luận
Bình luận
avatar
level icon
huyenvo

01/08/2024

Cả hai nhà thơ đều nhấn mạnh rằng thơ ca không chỉ đơn thuần là nghệ thuật mà còn là một phần thiết yếu trong cuộc sống. Thơ ca giúp con người kết nối với những cảm xúc sâu sắc, với hiện thực cuộc sống và với những ước mơ tương lai. Lưu Quang Vũ, với quan niệm thơ là "mây trắng của đời tôi", đã thể hiện một tâm hồn lãng mạn, bay bổng nhưng cũng đầy trăn trở trước những thực tại khắc nghiệt của cuộc sống. Ông đã từng yêu những người phụ nữ tài hoa, và điều đó đã tạo nên những tác phẩm thơ ca đầy cảm xúc, phản ánh sâu sắc tâm tư của con người.

Hãy giúp mọi người biết câu trả lời này thế nào?
0/5 (0 đánh giá)
thumb up 0
thumb down
0 bình luận
Bình luận

Nếu bạn muốn hỏi bài tập

Các câu hỏi của bạn luôn được giải đáp dưới 10 phút

Ảnh ads

CÂU HỎI LIÊN QUAN

FQA.vn Nền tảng kết nối cộng đồng hỗ trợ giải bài tập học sinh trong khối K12. Sản phẩm được phát triển bởi CÔNG TY TNHH CÔNG NGHỆ GIA ĐÌNH (FTECH CO., LTD)
Điện thoại: 1900636019 Email: info@fqa.vn
location.svg Địa chỉ: Số 21 Ngõ Giếng, Phố Đông Các, Phường Đống Đa, Thành phố Hà Nội, Việt Nam.
Tải ứng dụng FQA
Người chịu trách nhiệm quản lý nội dung: Đào Trường Giang Giấy phép thiết lập MXH số 07/GP-BTTTT do Bộ Thông tin và Truyền thông cấp ngày 05/01/2024
Copyright © 2023 fqa.vn All Rights Reserved