
09/08/2024
09/08/2024
Nội dung của tác phẩm không bao giờ là sự lí giải dửng dưng, lạnh lùng...
“Ai bảo dính vào duyên bút mực
Suốt đời mang lấy số long đong
Nguyễn Bính đã thở than như thế . Phải chăng vì những quy luật đào thải khắc nghiệt của văn chương đã góp phần tạo nên những phận đời long đong của nghiệp cầm bút ? Nó đòi hỏi nghệ sĩ phải luôn nỗ lực để trải lòng mình ra trang giấy để tạo nên những tác phẩm đong đầy cảm xúc và tư tưởng. Vì “ Nội dung của tác phẩm không bao giờ chỉ là sự lý giải dửng dưng lạnh lùng mà nó gắn liền với cảm xúc mãnh liệt.” (Lê Ngọc Trà)
Đã có thời ai cũng nghĩ thi nhân là người suốt ngày “nâng khăn lau mắt lệ” , cứ mộng mơ theo ánh trăng dưới nước hình hoa trong kính mà quên đi thực tại. Và cũng đã có lúc người ta nghĩ những nhà văn tựa những nhà giáo huấn mang con chữ đi để truyền đạt những giáo điều tách rời của hiện thực cuộc sống con người. Không. Những cảm xúc nồng nàn của thơ ca âu cũng là cầu nối để thơ ca truyền đạt tư tưởng . Và những triết lý nhân sinh mà nhà văn gửi gắm trong văn chương của mình trước tiên bao giờ cũng là lời cất lên từ những tiếng thét khổ đau, lời ca tụng hân hoan. Bởi lẽ “ Nội dung của tác phẩm không bao giờ chỉ là sự lý giải dửng dưng lạnh lùng mà nó gắn liền với cảm xúc mãnh liệt.” Tư tưởng và tình cảm luôn có một vai trò quan trọng trong việc hình thành một tác phẩm. Thiếu một trong hai tác phẩm sẽ không thể trọn vẹn được . Cho nên để có được một tác phẩm bất tử với thời gian thì nhà văn,nhà thơ cần nỗ lực kết hợp nhuần nhuyễn giữa tư tưởng và tình cảm.
Văn học trước khi là nỗi thương nhớ vương vấn trong lời ca dao, là nỗi buồn trong kẽ thơ , là nỗi trăn trở về chuyện đời, chuyện người trong các tác phẩm truyện ngắn thì bản thân nó là một ngành khoa học nghiên cứu về tâm hồn con người. Bởi vậy văn học tồn tại trên đời như một công cụ “khám phá” để con người hiểu mình hơn . Mỗi ngày cuộc sống con người hiện hình trong mắt ta là một vạn thế giới đầy chênh chao. Ta bị xô đẩy trong những ảo ảnh này đến ảo ảnh khác mà không nhận ra : “Mình là ai?” ;”Mình tồn tại trên thế giới để nhằm mục đích gì? “ “Đâu là những giá trị thực của mình.” Những câu hỏi vang vọng. Những cảm xúc chợt đến chợt đi đầy mơ hồ. Có phải mọi sự đang diễn ra xung quanh ta đều là cuộc sống thực như thế và nên là như thế? Hay tất cả đều nằm trong tưởng tượng của ta về nó? Và đâu là con đường dẫn về nỗi đau chân thực và hạnh phúc chân thực? Trong sự ngụp lặn giữa biển khơi của cuộc đời , kì lạ thay con người lại tìm đến văn học. Và kì lạ thay chính tư tưởng trong văn học khi đối diện với con người lại trở thành một tấm gương soi . Để rồi từng lớp mặt nạ của những cái tôi độc đoán , cố hữu về hiện tại nứt rạn và vỡ tan. Ta lại mở lòng để tìm hiểu những cách sống . Ta lại có những điểm nhìn mới về những hiện tượng chung quanh ta Ta lại thấu rõ tường tận những sai lầm của bản thân. Ta lại hiểu được đâu là vẻ đẹp thực sự trong mình cần phát huy. Như vậy bằng những nhận thức tường tận , độc giả bằng những câu trả lời có được từ chính những câu hỏi trong tác phẩm, những bài học rút ra từ tưởng của tác phẩm, họ lại quay trở về chấn chỉnh chính mình , cải tạo cuộc sống của chính mình . Cho nên hơn bất kì nơi đâu , “nội dung của tác phẩm” luôn tồn tại” sự lý giải” về cuộc sống
Tuy nhiên, nếu văn chương chỉ là lời lý giải cuộc sống thì “Tác phẩm nghệ thuật sẽ chết nếu nó miêu tả cuộc sống chỉ để miêu tả , nếu nó không phải là tiếng thét khổ đau hay lời ca tụng hân hoan”(Belinxky) . Phải chăng văn học với điểm tựa là cuộc sống phải thoát thai ra bên ngoài để cất lên tiếng nói cảm xúc của mình? Thật vậy bởi lẽ văn học vận hành theo quy luật tình cảm . Văn học là sự lên tiếng thôi thúc của trái tim. Nhà văn chỉ viết được khi “trong tim cuộc sống đã tràn đầy”(Tố Hữu) Nếu như các ngành khoa học khác loại bỏ cái tôi trong nghiên cứu thì các ngành nghệ thuật, trong đó có văn học lại lấy cái tôi làm điểm tựa sáng tạo. Cái tôi của người nghệ sĩ bao giờ cũng là sự liên kết của các sợi dây tình cảm. Cái tôi ấy tạo cho Thạch Lam một mối cảm thông sâu sắc trước cái chết của người mẹ, đứng trước nỗi khổ đau của đàn con trẻ dại “ đứa lớn nhất mới mười bảy tuổi còn đứa bé nhất thì còn đang phải bế trên tay” (Nhà mẹ Lê – Thạch Lam) . Cái tôi ấy lại truyền cho thơ ca Xuân Diệu một luồng cảm xúc vui tươi để ca vang cùng đất trời khúc hát say mê cảnh sắc trần gian : “Này đây hoa của đồng nội xanh rì/ Này đây lá của cành tơ phơ phất / Của yến anh này đây khúc tình si/ Và này đây ánh sáng chớp hàng mi.” (Vội Vàng- Xuân Diệu). Cái tôi của nghệ sĩ cần là một cái tôi nhạy cảm với mọi biến thiên cuộc sống . Cái tôi riêng biệt của thi nhân, văn sĩ sẽ tạo nên cuộc đời của tác phẩm. Ai cũng hiểu rằng “Cuộc đời là điểm bắt đầu cũng là điểm kết thúc của tác phẩm”(Tố Hữu ). Nhưng trên mảnh đất hiện thực cuộc sống với nhiều đề tài phong phú kì diệu hay ngay cả trên những mảnh đất tưởng chừng đã trăm dấu chân qua thì điều làm nên dấu ấn riêng cho tác phẩm chính là những cảm xúc riêng biệt của tác giả. Nếu thiếu đi những cảm xúc mãnh liệt thì những hình ảnh trong thơ,văn anh chỉ là những hình ảnh lay lắt , không có sức sống . “Đừng cậy thời đại anh hùng nếu tâm hồn anh cứ bé” . Đừng mong đợi sự tồn tại lâu bền của tác phẩm nếu anh không “còn một trái tim , một dòng máu nóng để yêu thương, cảm thông và chia sẻ.” (Dostevsky) . Vì vậy văn học tồn tại như một bầu cảm xúc mãnh liệt từ nhân gian đã trở thành bản chất.
Tình cảm không chỉ là “khâu đầu tiên” mà còn là “khâu cuối cùng” trong quá trình hình thành một tác phẩm văn học . Văn học chỉ sống trong lòng đồng cảm của người đọc. Và văn học chỉ hoàn thành sứ mệnh của mình khi nó “trở thành thứ vũ khí thanh cao và đắc lực mà chúng ta có để vừa tố cao vừa thay đổi một thế giới giả dối và tàn ác, vừa làm cho người đọc thêm trong sách và phong phú hơn.” (Thạch Lam) . Nhưng tâm hồn lại như một khối pha lê lấp lánh như lại rắn chắc. Làm thế nào để văn học có thể “nâng giấc mơ cho những kẻ khốn cùng “ hay “truyền thổi giữa tâm hồn người đọc một niềm tin vào cuộc sống , một tình yêu bát ngát với cuộc đời” nếu nó không mang tiếng thét khổ đau hay những lời ca tụng hân hoan của mình phá vỡ khối pha lê ấy ? “Bởi lẽ “thơ muốn làm cho người ta khóc, trước tiên mình cũng phải khóc , muốn làm cho người ta cười trước hết mình cũng phải cười . “ . Cảm xúc trơ lì, sáo mòn chỉ là những xúc cảm hời hợt , rồi sẽ nhạt phai theo thời gian. Chỉ những gì xuất phát từ trái tim mới đi đến những trái tim . Văn học vì thế trở thành một bầu cảm xúc mãnh liệt để con người trong đời này biết yêu thương và san sẻ với nhau nhiều hơn.
Ai đã từng mang cõi lòng say mê bước vào địa hạt văn chương chẳng mong để lại một tác phẩm hay? Nhưng thế nào là hay? Hẳn nhiên có rất nhiều yếu tố chủ quan và khách quan để làm nên một tác phẩm hay. Nhưng rõ ràng chúng ta không thể phủ nhận được rằng một trong những yếu tố tiên quyết đó chính là nội dung của tác phẩm ấy sẽ có một sự hòa hợp giữa tư tưởng và tình cảm. Bởi lẽ nếu các ngành khoa học khác đã chọn lựa nội dung từ các định lý, định luật. Văn học lại là ngành nghiên cứu về con người. Con người chính là “một tiểu vũ trụ” (theo triết học Phương Đông) . Vũ trụ ấy không chỉ tồn tại những bầu cảm xúc mãnh liệt : yêu , buồn , hờn , giận, lòng căm thù hay lòng ngưỡng mộ. Nó bao la hơn , sâu sắc hơn bởi những cảm nghĩ của con người và triết lý của con người về cuộc đời. Vì vậy khi văn học đã khẳng định mình “và cuộc sống là hai đường tròn đồng tâm mà tâm điểm là con người” (Nguyễn Minh Châu) thì cũng đồng nghĩa là những điều mà văn học nhớ nhung , day dứt, ca ngợi đều được đong đầy , trải ra trên bề mặt tư tưởng và tình cảm. Bởi lẽ nếu thiếu tình cảm thì văn học cũng chỉ là sự thuyết giảng đạo đức. Rồi người đọc sẽ nhàm chán với những triết lý khô cứng ấy mà lãng quên đi tác phẩm đó. Nếu văn chương chỉ trọng tình mà không thổi được vào những dòng chữ của mình những dòng tư tưởng sâu lắng thì tác phẩm ấy cũng không thể đáp ứng được nhu cầu thực sự của người đọc. Bởi lẽ “Người đọc tìm đến nhà thơ , là để đòi hỏi một cách sống , không phải chỉ hỏi một lý tưởng như một nhà triết học mà hỏi cách cảm xúc, cách thương, cách nhớ, cách giận, cách ghét như một người yêu.” (Chế Lan Viên). Như một ngọn gió bất thần làm rung động những cánh hoa, cuộc sống là nguồn mang đến cảm hứng dồi dào cho người nghệ sĩ. Và tác phẩm lại rung động người bằng nội dung có sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa tư tưởng và tình cảm .
Trong thơ có một ngưỡng cửa mà bất kì ai cũng phải vượt qua nếu muốn trở thành thi nhân chân chính : sự thành thật. Nhiều người mới bước vào thi đàn thơ ca lại cứ quen lối chau chuốt ngôn từ hay cường điệu tình cảm . Chau chuốt quá hóa sáo mòn , cường điệu lắm thành ra giả tạo. Xuận Quỳnh không thế. Chị xem mình là người phụ nữ bình thường và chị cho phép mình nương vào lời của” Sóng” để lý giải về tình yêu. Tuy nhiên việc sử dụng hình tượng “Sóng” lại không mới.Nhưng, “Sóng” của Xuân Quỳnh vẫn giữ được một góc riêng vì lời của Sóng là lời tâm sự đầy tha thiết , đầy suy tư về những triết lý tình yêu nhưng từ ngữ lại hết sức giản dị. Xuân Quỳnh đã phát hiện những quy luật của Sóng ở đại dương và đồng nhất chúng với quy luật tình yêu. Chị vừa thổ lộ trực tiếp những suy nghĩ vừa mượn hình tượng Sóng để thể hiện quy luật rằng : Tựa như sóng vẫn cứ vỗ bờ mãi ngàn năm không biết mệt mỏi thì tình yêu sẽ vĩnh cửu khi con người chân thành và hết mình vì nó. Xuân Quỳnh đã từ bỏ cái tôi chật hẹp đầy riêng tư để tìm đến một tình yêu bao la rộng lớn muôn đời. Có thể nói, “Sóng” chính là sự kết đọng của một trái tim yêu đầy xúc cảm, của một tâm hồn đầy trăn trở, triết lý trước tình yêu, trước cuộc đời.
Thơ ca đo ni đóng từng tấc từ tâm hồn con người ,muôn đời là tiếng nói cảm xúc của con người. Cất hộ tiếng lòng của con người, thơ ca làm sao có thể khước từ tinh yêu nơi trái tim. Có lẽ thế nên trong những lời lý giải của Sóng, người ta thấy thấp thoáng đâu đó chút nhớ nhung:
“Ôi con sóng nhớ bờ
Ngày đêm không ngủ được.”
Từ “Ôi” vang lên như một nốt thăng của nỗi nhớ. Nỗi nhớ mở ra chiều thứ tư của không gian – thời gian . Mà bản chất nó cũng là thời gian , là khoảng trời yêu thương , là những nhịp sống rất thường nhật của tình yêu. Bởi lẽ chỉ có thời gian mới bất tử với thời gian . Và cũng chỉ có tình yêu cùng nỗi nhớ mới đong đầy được thời gian. Xuân Quỳnh đã tìm thấy ở Sóng một sự giao hòa như thế. Nó vẫn vỗ mạnh vào bờ thời đại. Bản chất của Sóng là thế , có bao giờ đứng yên ? Như một tâm hồn ngừng nhớ là một tâm hồn ngừng yêu . Những con sóng vì thế vẫn triền miên vỗ bờ như em nhớ anh nên thao thức không yên.
Trong nỗi nhớ nhung, thoáng chốc thơ Xuân Quỳnh lại đầy những nỗi lo âu về sự phai nhạt của tình yêu:
“Cuộc đời tuy dài thế
Năm tháng vẫn đi qua
Như biển kia dẫu rộng
Mây vẫn bay về xa.”
Đứng trước biển , đứng trước sự vô hồn, vô tận của biển cả, sự vô thủy, vô chung của thời gian, con người lại rợn ngợp và đầy nỗi lo âu. Xuân Quỳnh trước biển lớn lại như Sóng chơi vơi đầy nỗi niềm. Có lẽ thế nên giọng thơ của chị quãng này chùng xuống , lắng đọng đầy chiêm nghiệm. “Cuộc đời” vì vậy cất lên ngay đầu câu như một tiếng thở dài . Bởi bản thân nó đang gánh trên vai tình yêu , sự sống và niềm tin. Xuân Quỳnh giữa thời gian lại như cánh chuồn chuồn bơ vơi tìm cho tình yêu chỗ nương thân trong nắng nôi dông bão của cuộc đời. Phải chăng thời gian đã thực sự đã bào mòn cái mầm sống le lói của tình yêu để nó trở nên hữu hạn ? Bởi lẽ bi kịch của tình yêu không phải là cái chết hay sự chia ly mà là sự lãnh đạm đi qua đời nhau ? Cặp quan hệ từ chỉ y nhượng bộ “tuy…vẫn”, “dẫu…vẫn…” tiếp nối sau đó đã thể hiện sự trăn trở của con người trước sự hữu hạn ấy của cuộc đời. Vì đời người tuy dài đến cả trăm năm thì theo năm tháng , tất cả rồi sẽ đi qua. Biển kia cũng vậy. Nó tuy rộng nhưng không phải vô tận nên chẳng thể giữ mây ở lại vĩnh viễn. Vũ trụ thì bao la nhưng con người lại nhỏ bé quá. Đời người thì ngắn ngủi nhưng khát vọng tình yêu của con người lại quá to lớn. Con người trước những nghịch lý ấy lại chỉ là một thân phận phù du ôm mộng tình yêu vĩnh hằng, hạnh phúc muôn đời. Và vì vậy con người luôn lo lắng, sợ hãi trước sự phôi phai của tình yêu . Mang trong mình những sự sợ sệt cố hữu nên con người càng gan dạ để sẵn sàng vượt qua mọi thử thách của thời gian để vì nhau và cùng nhau tìm kiếm hạnh phúc chân thực. Không gian và thời gian tuy từng trở đi trở lại trong thơ Xuân Quỳnh như một nỗi ám ảnh về tình yêu phai nhạt lại trở về trong “Sóng” như một động lực, một nguồn sức mạnh để hun đúc cho người sự mạnh mẽ để hành động và sống vì tình yêu của mình. Chính “Sóng” đã đưa tình yêu “Trở về đúng nghĩa trái tim em/ Biết khát khao những điều mơ ước. Biết xúc động qua nhiều nhận thức/ Biết yêu anh và biết được anh yêu.” (Tự Hát). Và cũng để chén rượu thơ của Xuân Quỳnh rót ra trên bề mặt chữ sớm gặp những nỗi lòng tri âm của thế hệ - những người vẫn mang khát vọng yêu thương và sẻ chia.
Tư tưởng và tình cảm không chỉ là những vấn đề trở đi trở lại từng quặng chữ thơ ca. Tuy nhiên nội dung với sự kết hợp nhuần nhuyễn của tư tưởng và tình cảm sẽ không thể làm rung động đến người đọc nếu chúng không đi trên con đường của hình thức. Bởi lẽ như Leonit Leonop đã từng nói : “Tác phẩm nghệ thuật hoàn chỉnh chính là sự sáng tạo về hình thức và khám phá về nội dung.” Vì vậy bên cạnh việc tạo cho tác phẩm một nội dung thật sâu sắc thì nhà văn, nhà thơ còn phải nỗ lực để tìm kiếm một hình thức phù hợp. Chỉ có như thế tác phẩm của anh mới neo đậu mãi trên bến bờ tâm hồn người đọc.
Quynh Anh
09/08/2024
meenguyen1 s coppy y nguyên trên fb v bạn:((
09/08/2024
Quynh Anh Nội dung tư tưởng của tác phẩm văn học không bao giờ chỉ là sự lý giải đơn thuần lạnh lùng mà gắn liền với cảm xúc mạnh mẽ, chứng minh qua tác phẩm "Chuyện người con gái Nam Xương". Tác phẩm thể hiện sâu sắc những nỗi đau, khát vọng và số phận của con người, đặc biệt là người phụ nữ trong xã hội xưa.
Nếu bạn cần thêm thông tin hoặc phân tích sâu hơn về tác phẩm này, hãy cho tôi biết!
Quynh Anh
09/08/2024
Komi San xây dựng luận điểm ở phần chứng minh cho mình được không ạ
Komi San
09/08/2024
oke đợi mk ạ
Quynh Anh
09/08/2024
Komi San bạn ơi xong chx ạ
Nếu bạn muốn hỏi bài tập
Các câu hỏi của bạn luôn được giải đáp dưới 10 phút
CÂU HỎI LIÊN QUAN
7 giờ trước
Top thành viên trả lời