09/08/2024
27/08/2025
Trong thơ ca Việt Nam, mùa thu luôn là nguồn cảm hứng bất tận, khơi dậy những rung động tinh tế của tâm hồn nghệ sĩ. Nếu Xuân Diệu – “ông hoàng thơ tình” của phong trào Thơ mới – nhìn thu bằng đôi mắt lãng mạn, đầy khao khát và buồn vương, thì Hữu Thỉnh – nhà thơ trưởng thành sau 1975 – lại đón thu bằng sự chiêm nghiệm nhẹ nhàng, gắn với suy tư về cuộc đời. Bài thơ “Thu” của Xuân Diệu và “Sang thu” của Hữu Thỉnh là hai tiếng lòng rất khác nhau nhưng gặp gỡ ở điểm chung: đều gửi gắm tình yêu tha thiết với thiên nhiên đất trời.
Ở Xuân Diệu, mùa thu hiện lên bằng những gam màu, đường nét mượt mà, gợi cảm giác lãng mạn: “Nõn nà sương ngọc quanh thềm đậu / Nắng nhỏ bâng khuâng chiều lỡ thì.” Cảnh thu của ông được vẽ bằng những chi tiết tinh tế, giàu sức gợi: làn sương, ánh nắng, khói mờ, dòng sông xanh, tiếng chim lạc giữa không trung. Thu của Xuân Diệu chan chứa nỗi buồn mơ hồ, một nỗi “buồn ở sông xanh”, “mơ hồ trong một tiếng chim qua”. Ẩn sau cảnh thu ấy là một cái tôi nhạy cảm, luôn lo âu trước sự trôi chảy của thời gian và tuổi trẻ. Dù vậy, trong bức tranh thu ấy vẫn thấp thoáng vẻ đẹp rực rỡ: “Gió thu hoa cúc vàng lưng giậu / Sắc mạnh huy hoàng áo trạng nguyên.” Như thế, Xuân Diệu vừa buồn, vừa say mê, vừa khao khát tận hưởng vẻ đẹp mong manh nhưng rực rỡ của mùa thu.
Trong khi đó, Hữu Thỉnh lại mang đến một mùa thu rất đời thường, giản dị mà gần gũi. Những tín hiệu báo thu về được nhận ra qua mùi hương ổi, làn gió se, màn sương “chùng chình qua ngõ”. Thu đến bất ngờ, nhẹ nhàng, như một người khách quen thân. Nếu ở Xuân Diệu, thu gắn với nỗi buồn vời vợi, thì ở Hữu Thỉnh, thu là sự giao thoa giữa hạ và đông, là sự chuyển mình của đất trời: “Có đám mây mùa hạ / Vắt nửa mình sang thu.” Bên cạnh cảm nhận thiên nhiên, “Sang thu” còn gửi gắm suy tư của con người trước bước đi của thời gian: khi “sấm cũng bớt bất ngờ / Trên hàng cây đứng tuổi” là khi con người đã dần vững vàng hơn sau những thử thách, biến động của cuộc đời.
Có thể thấy, điểm tương đồng của hai tác phẩm là đều khắc họa mùa thu bằng cảm xúc tinh tế, giàu chất nhạc và chất họa, thể hiện tình yêu thiên nhiên sâu sắc. Nhưng sự khác biệt cũng rất rõ: Xuân Diệu dùng con mắt của nhà thơ lãng mạn để nhìn thu trong nỗi buồn nhân sinh, nỗi tiếc nuối thời gian; còn Hữu Thỉnh lại viết thu với giọng điệu chiêm nghiệm, bình thản, gửi gắm triết lí sống của một thế hệ từng đi qua chiến tranh, bước vào hòa bình.
Tóm lại, cả “Thu” của Xuân Diệu và “Sang thu” của Hữu Thỉnh đều góp phần làm phong phú thêm bức tranh mùa thu trong thơ ca Việt Nam. Một bên lãng mạn, rực rỡ, buồn vương; một bên bình dị, sâu lắng, triết lí. Hai hồn thơ cách nhau bốn thập kỉ nhưng cùng gặp nhau ở tình yêu đời, yêu thiên nhiên, và đều để lại dư âm đẹp đẽ trong lòng người đọc.
09/08/2024
09/08/2024
Mùa thu thường là đề tài gợi cảm hứng cho thi ca và nhạc họa nhiều nhất trong bốn mùa của năm. Nhà thơ Hữu Thỉnh qua bài thơ 'Sang Thu' và nhà thơ Xuân Diệu qua bài thơ ‘Thu’ đã chia sẻ những cảm nhận tinh tế về thời điểm chuyển mùa từ cuối hạ sang đầu thu, với phong cách nghệ thuật thơ nhỏ nhẹ và sâu lắng.
Xuân Diệu xuất hiện trong Thơ mới với tất cả lòng say mê yêu cuộc sống, khát khao giao cảm với đời. Ở nhà thơ là sự nhạy cảm trước những bước đi của thời gian, một tâm hồn cảm nhận hết sức tinh tế. Đồng thời là cách bộc lộ cảm xúc mới mẻ chưa từng có trong thơ ca đương thời. Đặc biệt qua bài thơ "Thu" ta sẽ cảm nhận được một cái nhìn mới mẻ của nhà thơ về mùa thu
“Nõn nà sương mọc quanh thềm đậu
Nắng nhỏ bâng khuâng chiều lỡ thì”
(Thu)
Câu thơ khiến ta liên tưởng đến những gì yếu điệu, ngọc ngà, trắng trong tinh khiết như một cánh hoa đang gặp cơn gió làn thoáng qua. Đồng thời là một khoảng thời gian mơ hồ “nắng nhỏ”, đó là sắc nắng nhạt nhòa thật côi cút. Cảm giác hụt hững ấy là do buổi “chiều lỡ thì”. Với biện pháp nhên hóa “chiều lỡ thì”, đã khơi dậy một nỗi niềm trắc ẩn xót. Câu thơ gợi lên một không gian chiều lơ lửng, một không gian chiều tràn đầy tâm trạng. Phải chăng, qua vẻ đẹp của thiên nhiên, Xuân Diệu muốn tưởng đến một cô gái đã qua cái độ trăng tròn, đang dần phai hương sắc. Xuân Diệu đã nhân hóa thiên nhiên bởi nhà thơ nghe được màu sắc, nhìn được âm thanh, nhất là những gì rơi rụng, héo tàn:
“Hư vô bóng khói trên đầu lạnh
Cành biếc run run chân ý nhi
Hây hây thục nữ mắt như thuyền
Gió thu, hoa cúc vàng lưng giậu”.
Hình ảnh “ý nhi”, “bức gấm”, “thục nữ”, “cúc vàng lưng giậu”, sắc áo trạng nguyên” đều hết sức tiêu biểu cho phong vị mùa thu trong thơ cổ. Ở Xuân Diệu là sự hòa điệu giữa nỗi buồn man mác của mùa thu với tâm trạng buồn của một nhà thơ lãng mạn. Xuân Diệu đã hóa thân vào thiên nhiên để cùng với cỏ cây hoa lá cảm nhận sự thay đổi của tiết trời vào mùa giao chuyển. Dường như ở cô “thục nữ mắt như thuyền” đang chìm đắm vào một giấc mơ hoa. Nếu coi thiên nhiên là một đối tượng khai thác không thể thiếu cho quá trình tìm kiếm nguồn tư tưởng, so sánh và ấn tượng của tư duy thơ thì có thể nói rằng, Xuân Diệu đặc biệt tài tình về mặt này. Ông đã ban phát cho thiên nhiên sự rung động, cảm giác của mình và ngược lại từ thiên nhiên, ông đã tạo nên vô vàn những liên tưởng độc đáo và thú vị.
"Gió thầm mây lặng, dáng thu xa
Mới tạnh mưa trưa, chiều đã tà
Buồn ở sông xanh nghe đã lại
Mơ hồ trong một tiếng chim qua"
Khổ thơ cho ta cảm nhận trời thu yên bình lặng lẽ. Cảnh vật vì mùa thu êm ả mà cũng trầm theo. Ta cảm nhận được có gì đó tiếc nuối, có gì đó nhẹ nhàng, đằm thắm của mùa thu thổi nhẹ qua mặt sống xanh. Thoang thoảng còn có tiếng chim qua. Để rồi
"Gió thu hoa cúc vàng lưng giậu
Sắc mạng huy hoàng áo trạng nguyên"
Hình ảnh liên tưởng thật thú vị. Khi màu vàng hoa cúc lại nổi bật giữa màu vàng của áo trạng nguyên. Điều đó khiến mùa thu trở nên thật to lớn, thật vĩ đại, mà cũng thật xa vời
Xuân Diệu với tài năng của mình đã cho người đọc chiêm ngưỡng một mùa thu đẹp, bình yên, một mùa thu nhẹ nhàng thổi qua, khiến lòng người hiu hiu, nhưng cũng có chút cô độc. Mùa thu đó thật đẹp, khiến chúng ta lại càng thêm xao xuyến.
Hữu Thỉnh là thế hệ nhà thơ trưởng thành trong thời kì kháng chiến chống Mỹ, thơ ông thường chứa đựng cảm xúc tha thiết, chân thành và rất giàu chất suy tư, triết lý. Sang thu cũng là một tác phẩm như vậy. Bài thơ được khởi nguồn cảm xúc từ khoảnh khắc giao mùa nhưng đằng sau đó còn là cảm xúc của tác giả về đời người lúc sang thu.
Tính chất suy tư, triết lí trong thơ Hữu Thỉnh được thể hiện ngay từ nhan đề bài thơ. Sang thu không chỉ là khoảnh khắc giao mùa của đất trời khi hè đã qua và mùa thu đang cựa mình đi tới. Mà sang thu còn ẩn dụ về cuộc đời con người. Đây là thời điểm con người đã sang thu, đã trải qua biết bao sóng gió, bởi vậy cũng trở nên vững vàng hơn trước mọi cơn giông bão của cuộc đời.
Bỗng nhận ra hương ổi
Phả vào trong gió se
Sương chùng chình qua ngõ
Hình như thu đã về
Làng quê yêu mến dìu bước chân thi nhân đi từ hương ổi đến gió se... Rồi khi lạc giữa làn mây sớm chùng chình thì nhà thơ không nén nổi niềm xúc động, ông khe khẽ thì thầm: "Hình như thu đã về". Từ "hình như" diễn tả tâm trạng ngỡ ngàng băn khoăn rất tinh tế của nhà thơ khi ngỡ ngàng nhận ra "thu đã về". Khổ thơ đầu tiên của bài thơ "Sang thu" đặc biệt dịu dàng tinh tế, nó diễn tả những biến đổi tinh vi của đất trời và lòng người trong thời khắc giao mùa được chờ đợi rất nhiều trong năm: từ hạ chuyển sang thu. Khổ thơ đã góp phần quan trọng tạo nên bài thơ "Sang thu", một áng thơ thu duyên dáng và tài tình tỏng thi đề mùa thu quen thuộc của văn học Việt Nam.
Tiếp đến là khổ thơ thứ hai, hình ảnh "dòng sông" không còn mang dòng chảy vội vã, hối hả mà giờ đây đi chậm lại để cảm nhận, tận hưởng vẻ đẹp yên bình của mùa thu. "Đàn chim" trong mùa thu tươi đẹp này, hình ảnh đàn chim mang nét đối lập với dòng sông. nếu dòng sông lững thững, dềnh dàng để cảm nhận thời tiết mát mẻ, dịu dàng thì đàn chim lại vội vã, hối hả đi tìm thức ăn và sửa soạn lại tổ ấm của mình để đón chờ mùa đông khắc nghiệt sắp tới. Hình ảnh "đám mây" không còn mang màu xanh biếc của mùa hè oi bức, mây như trở nên dịu dàng hơn, hiền hòa hơn và uốn mình thành một đường cong mềm mại để chuyển dần sang mùa thu. Động từ "vắt" thể hiện sự nghịch ngợm, dí dỏm của đám mây đồng thời làm cho đám mây như có hồn hơn, hình ảnh chuyển đổi như mềm mại hơn, thú vị hơn. Đám mây mới chỉ "nửa mình sang thu" vì vẫn còn lưu luyến mùa hè rộn rã. Bốn câu thơ đã khắc họa những biến chuyển tinh tế của cảnh vật từ mùa hè sang mùa thu. Mỗi cảnh vật lại có một đặc trưng riêng nhưng tất cả đã làm cho bức tranh mùa thu thêm thi vị hơn.
Vẫn còn bao nhiêu nắng
Đã vơi dần cơn mưa
Sấm cũng bớt bất ngờ
Trên hàng cây đứng tuổi
Những dư âm của mùa hạ vẫn còn: đó là ánh nắng, là những cơn mưa, là tiếng sấm giòn. Tuy nhiên, tất cả đã trở nên dịu dàng hơn, hiền hòa hơn, không còn bất ngờ và gắt gỏng nữa.
Hai câu thơ cuối, tác giả muốn khẳng định hình tượng sấm thường xuất hiện bất ngờ đi liền với những cơn mưa rào chỉ có ở mùa hạ. Đó cũng là những vang động bất thường của ngoại cảnh của cuộc đời. "Hàng cây đứng tuổi" gợi tả những con người từng trải đã từng vượt qua những khó khăn, những thăng trầm của cuộc đời. Qua đó, con người càng trở nên vững vàng hơn.
Bài thơ được viết theo thể năm chữ, hình ảnh thơ đẹp, giàu sức gợi, ngôn ngữ trong sáng, giàu sức biểu cảm đã có tác dụng diễn tả những trạng thái của cảnh vật và sự cảm nhận tinh tế, nhạy cảm của thi nhân trước thiên nhiên, vũ trụ đất trời khi bắt đầu sang thu. Đọc xong bài thơ, chúng ta thấy được sự mới mẻ trong cách cảm nhận mùa thu của Hữu Thỉnh, đồng thời thấy được tình yêu đời, yêu thiên nhiên đất nước sâu sắc của nhà thơ.
Nếu bạn muốn hỏi bài tập
Các câu hỏi của bạn luôn được giải đáp dưới 10 phút
CÂU HỎI LIÊN QUAN
6 giờ trước
6 giờ trước
6 giờ trước
6 giờ trước
Top thành viên trả lời