Thơ ca là một trong những thể loại được nhiều người yêu thích, bởi nó mang đến cho độc giả những cảm xúc thăng hoa khó tả. Trong đó, không thể không nhắc đến hai thi phẩm “Hoàng Hạc Lâu” của Thôi Hiệu và “Tràng Giang” của Huy Cận. Hai bài thơ này đều viết về đề tài thiên nhiên nhưng lại có những nét đặc sắc riêng biệt.
“Hoàng Hạc Lâu” là một tác phẩm nổi tiếng của nhà thơ Thôi Hiệu thời Đường ở Trung Quốc. Bài thơ khắc họa khung cảnh thiên nhiên tuyệt đẹp trên lầu Hoàng Hạc, nơi lưu truyền giai thoại Hạc vàng bay về nước Phật. Tác giả đứng trên lầu cao, hướng tầm mắt ra xa để ngắm nhìn thiên nhiên hùng vĩ, từ đó bộc lộ tâm trạng cô đơn trước cuộc sống hiện tại. Mở đầu bài thơ, Thôi Hiệu đã miêu tả khung cảnh thiên nhiên ở lầu Hoàng Hạc:
"Hạc vàng ai cưỡi đi đâu,
Mà đây Hoàng Hạc riêng lầu còn trơ."
Câu thơ mở đầu gợi mở ra không gian mênh mông bát ngát, trong không gian ấy xuất hiện hình ảnh đám mây trôi nhẹ nhàng trên bầu trời. Câu thơ không chỉ tả mà còn gợi ra tâm trạng bâng khuâng, u sầu của tác giả, phải chăng đó là nỗi nhớ cố đô của một người con xứ Huế. Trong chùm thơ viết về Hoàng Hạc lâu thì bài "Hoàng Hạc Lâu" được xem là kiệt tác số một bởi nó hội tụ nội dung tinh thần của cả chùm thơ này. Bởi vì sự xuất hiện của nhân vật "khách" trong bài thơ chính là đại diện cho nhà thơ Thôi Hiệu với tâm trạng hoài niệm nhớ thương da diết thời xưa cũ.
Bài thơ "Hoàng Hạc Lâu" của Thôi Hiệu là bức tranh thiên nhiên đầy màu sắc và tâm trạng của người thi sĩ, được vẽ nên bằng những vần thơ trữ tình chứa đựng những triết lí sâu sắc về cuộc đời.
Còn đối với bài thơ Tràng Giang của Huy Cận, ta cũng thấy được vẻ đẹp của thiên nhiên qua ngòi bút tài hoa của ông. Nhưng khác với Thôi Hiệu, Huy Cận lại chọn cho mình một không gian rộng lớn hơn, đó là sông nước mênh mông:
Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp,
Con thuyền xuôi mái nước song song.
Thuyền về nước lại sầu trăm ngả;
Củi một cành khô lạc mấy dòng.
Tác giả sử dụng biện pháp đảo ngữ kết hợp với các từ láy như “điệp điệp”, “song song” để diễn tả sự vô định, vô hồn của cảnh vật. Hình ảnh “củi một cành khô lạc mấy dòng” càng làm tăng thêm sự nhỏ bé, lẻ loi giữa không gian bao la. Tất cả tạo nên một bức tranh thiên nhiên tĩnh lặng, đượm buồn.
Như vậy, cả hai bài thơ đều lấy thiên nhiên làm trung tâm, nhưng mỗi bài lại có những nét đặc sắc riêng. Nếu “Hoàng Hạc Lâu” mang đậm chất cổ điển với những hình ảnh ước lệ thì “Tràng Giang” lại mang đậm phong cách hiện đại với những hình ảnh bình dị, gần gũi. Tuy nhiên, cả hai bài thơ đều thể hiện rõ nét tâm trạng của tác giả trước cuộc sống hiện tại. Đó là nỗi buồn, sự cô đơn khi phải sống trong hoàn cảnh đất nước đang bị xâm lược. Qua đó, chúng ta cũng thấy được tài năng nghệ thuật của hai nhà thơ thông qua việc sử dụng ngôn ngữ, hình ảnh và âm điệu.
Tóm lại, “Hoàng Hạc Lâu” và “Tràng Giang” là hai bài thơ hay về đề tài thiên nhiên. Mỗi bài thơ mang một vẻ đẹp riêng, phù hợp với phong cách sáng tác của từng tác giả.