Phân tích bài thơ Ai tư vãn Cầu Tiên khói toả đỉnh non, Xe rồng thăm thẳm, bóng loan rầu rầu! Nỗi lai lịch dễ hầu than thở, Trách nhân duyên mờ lỡ cớ sao? Sầu sầu, thảm thảm xiết bao, Sầu đầy giạt bể...

thumb up 0
thumb down
Trả lời câu hỏi của Cuongjj
  • Câu trả lời phải chính xác, đầy đủ dựa trên kiến thức xác thực:
    • ✔ Đối với câu hỏi trắc nghiệm: Đưa đáp án lựa chọn + giải thích lý do chọn đáp án.
    • ✔ Đối với câu hỏi tự luận: Đưa lời giải và đáp án cho câu hỏi.
    • ✔ Đối với câu hỏi trả lời ngắn: Đưa ra đáp án + giải thích lý do.
    • ✔ Chấp nhận sử dụng ảnh do thành viên viết tay, ảnh cần rõ nét, không bị mờ, vỡ ảnh.
  • Sử dụng ngôn ngữ rõ ràng, dễ hiểu.
  • Tránh đưa ra các ý kiến cá nhân mang tính chất chủ quan.
  • Nếu sử dụng thông tin từ nguồn khác, phải trích dẫn nguồn đầy đủ và chính xác.
  • Tuyệt đối không được sao chép các thông tin từ các trang khác, từ AI hoặc chatGPT.
CÂU TRẢ LỜI
avatar
Timi

30/09/2024

Trợ lý học tập AI - Câu trả lời này chỉ mang tính tham khảo
Đỗ Thị Tục (1726-?) là con gái của Đỗ Thế Dận, một đại quan thời Lê mạt. Bà lấy chồng là Nguyễn Khản (1734-1780), anh trai vua Chiêu Thống nhà Tây Sơn. Sau khi chồng mất, bà ở vậy nuôi con và có làm một tập thơ để ghi lại tâm sự của mình. Tập thơ ấy hiện không còn nữa nhưng vẫn lưu truyền 5 bài thơ Nôm, trong đó có Ai tư vãn. Bài thơ viết theo thể ngâm khúc, gồm 408 câu thơ song thất lục bát, chưa rõ được sáng tác vào năm nào.
Ai tư vãn là khúc ngâm tỏ lòng của một người đàn bà khóc chồng. Người đàn bà ấy là Đỗ Thị Tục, vợ góa của Nguyễn Khản, lúc đầu ra ở chùa Quán Sứ, sau về làng Bát Tràng. Trong khoảng mười năm, bà sống âm thầm lặng lẽ với hai đứa con nhỏ, vừa dạy học cho các con, vừa đọc sách, ngâm thơ, làm thơ.
Bài thơ mở đầu bằng cảnh khóc chồng thê thảm, não ruột:
"Khói toả đỉnh non, xe loan rầu rĩ,
Bóng loan rầu rĩ, nỗi lai lịch khó nói.
Nỗi lai lịch khó nói thì đành thôi,
Sầu sẩm thảm thiết, thảm thảm vô ngần!
Sầu đầy dẫy biển, thảm chất cao như núi,
Từ cờ thắm trỏ vùng Bắc tới nơi,
Nghĩa tôn phù vằng vặc ánh dương,
Rút dây vâng mệnh phụ hoàng,
Thuyền lan, chèo quế thuận dòng Vu Quí".
Tiếp đến là nỗi nhớ thương khôn nguôi của người vợ trẻ đối với người chồng tài danh mà bạc mệnh:
"Trăm nghìn dặm quản gì non nước,
Chữ nghi gia mừng được phải duyên,
Sang yêu muôn đội ơn trên,
Rỡ ràng vẻ thúy, nối chen tiếng cầm.
Lượng che chở, vụng lầm nào kể,
Phận đinh ninh cặn kẽ mọi lời,
Dầu rằng non nước biến dời,
Nguồn tình ắt chẳng chút vơi đâu!".
Và cuối cùng là nỗi đau đớn tột cùng của người thiếu phụ trẻ khi phải chịu cảnh "tụ tan", "biệt li":
"Lòng trùm bọc thương hoa đoái cỏ,
Khắp tôn thân cũng đội ơn sang,
Miếu đường còn dấu chứng tường,
Tùng thu còn rậm mấy hàng xanh xanh.
Nhờ hồng phúc, đôi cành hòe quế,
Đượm hơi dương, dây rễ cùng tươi.
Non Nam lần chúc tuổi trời,
Dâng câu thiên bảu, bày lời hoa phong.
Những ao ước trập trùng tuổi hạc,
Nguyền trăm năm ngõ được vầy vui,
Nào hay sông cạn, bể vơi,
Lòng trời tráo trở, vận người biệt li!
Từ nắng hạ, mưa thu trái tiết,
Xót mình rồng mỏi mệt chẳng yên!
Xiết bao kinh sợ lo phiền,
Miếu thần đã đổ, thuốc tiên lại cầu.
Khắp mọi chốn đâu đâu tìm rước,
Phương pháp nào đổi được cùng chăng?
Ngán thay, máy tạo bất bằng!
Bóng mây thoắt đã ngất chừng xe loan!
Cuộc tụ, tán, bi, hoan kíp bấy!
Kể sum vầy đã mấy năm nay?
Lênh đênh chút phận bèo mây,
Duyên kia đã vậy, thân này nương đâu!
Trằn trọc luống đêm thâu, ngày tối,
Biết cậy ai dập nỗi bi thương?
Trong mong luống những mơ màng,
Mơ hồ bằng mộng, bàng hoàng như say.
Khi trận gió, hoa bay thấp thoáng,
Ngỡ hương trời bảng lảng còn đâu;
Vội vàng sửa áo lên chùa,
Thương ôi, quạnh quẽ trước lầu nhện chăng!"
Hãy giúp mọi người biết câu trả lời này thế nào?
1.0/5 (1 đánh giá)
thumb up 0
thumb down
0 bình luận
Bình luận

Cuongjj

Đỗ Thị Tục (1726-?) là con gái của Đỗ Thế Dận, một đại quan thời Lê mạt. Bà lấy chồng là Nguyễn Khản (1734-1780), anh trai vua Chiêu Thống nhà Tây Sơn. Sau khi chồng mất, bà ở vậy nuôi con và có làm một tập thơ để ghi lại tâm sự của mình. Tập thơ ấy hiện không còn nữa nhưng vẫn lưu truyền 5 bài thơ Nôm, trong đó có Ai tư vãn. Bài thơ viết theo thể ngâm khúc, gồm 408 câu thơ song thất lục bát, chưa rõ được sáng tác vào năm nào.

Ai tư vãn là khúc ngâm tỏ lòng của một người đàn bà khóc chồng. Người đàn bà ấy là Đỗ Thị Tục, vợ góa của Nguyễn Khản, lúc đầu ra ở chùa Quán Sứ, sau về làng Bát Tràng. Trong khoảng mười năm, bà sống âm thầm lặng lẽ với hai đứa con nhỏ, vừa dạy học cho các con, vừa đọc sách, ngâm thơ, làm thơ.

Bài thơ mở đầu bằng cảnh khóc chồng thê thảm, não ruột:

"Khói toả đỉnh non, xe loan rầu rĩ,

Bóng loan rầu rĩ, nỗi lai lịch khó nói.

Nỗi lai lịch khó nói thì đành thôi,

Sầu sẩm thảm thiết, thảm thảm vô ngần!

Sầu đầy dẫy biển, thảm chất cao như núi,

Từ cờ thắm trỏ vùng Bắc tới nơi,

Nghĩa tôn phù vằng vặc ánh dương,

Rút dây vâng mệnh phụ hoàng,

Thuyền lan, chèo quế thuận dòng Vu Quí".

Tiếp đến là nỗi nhớ thương khôn nguôi của người vợ trẻ đối với người chồng tài danh mà bạc mệnh:

"Trăm nghìn dặm quản gì non nước,

Chữ nghi gia mừng được phải duyên,

Sang yêu muôn đội ơn trên,

Rỡ ràng vẻ thúy, nối chen tiếng cầm.

Lượng che chở, vụng lầm nào kể,

Phận đinh ninh cặn kẽ mọi lời,

Dầu rằng non nước biến dời,

Nguồn tình ắt chẳng chút vơi đâu!".

Và cuối cùng là nỗi đau đớn tột cùng của người thiếu phụ trẻ khi phải chịu cảnh "tụ tan", "biệt li":

"Lòng trùm bọc thương hoa đoái cỏ,

Khắp tôn thân cũng đội ơn sang,

Miếu đường còn dấu chứng tường,

Tùng thu còn rậm mấy hàng xanh xanh.

Nhờ hồng phúc, đôi cành hòe quế,

Đượm hơi dương, dây rễ cùng tươi.

Non Nam lần chúc tuổi trời,

Dâng câu thiên bảu, bày lời hoa phong.

Những ao ước trập trùng tuổi hạc,

Nguyền trăm năm ngõ được vầy vui,

Nào hay sông cạn, bể vơi,

Lòng trời tráo trở, vận người biệt li!

Từ nắng hạ, mưa thu trái tiết,

Xót mình rồng mỏi mệt chẳng yên!

Xiết bao kinh sợ lo phiền,

Miếu thần đã đổ, thuốc tiên lại cầu.

Khắp mọi chốn đâu đâu tìm rước,

Phương pháp nào đổi được cùng chăng?

Ngán thay, máy tạo bất bằng!

Bóng mây thoắt đã ngất chừng xe loan!

Cuộc tụ, tán, bi, hoan kíp bấy!

Kể sum vầy đã mấy năm nay?

Lênh đênh chút phận bèo mây,

Duyên kia đã vậy, thân này nương đâu!

Trằn trọc luống đêm thâu, ngày tối,

Biết cậy ai dập nỗi bi thương?

Trong mong luống những mơ màng,

Mơ hồ bằng mộng, bàng hoàng như say.

Khi trận gió, hoa bay thấp thoáng,

Ngỡ hương trời bảng lảng còn đâu;

Vội vàng sửa áo lên chùa,

Thương ôi, quạnh quẽ trước lầu nhện chăng!"



Hãy giúp mọi người biết câu trả lời này thế nào?
0/5 (0 đánh giá)
thumb up 0
thumb down
0 bình luận
Bình luận

Nếu bạn muốn hỏi bài tập

Các câu hỏi của bạn luôn được giải đáp dưới 10 phút

Ảnh ads

CÂU HỎI LIÊN QUAN

FQA.vn Nền tảng kết nối cộng đồng hỗ trợ giải bài tập học sinh trong khối K12. Sản phẩm được phát triển bởi CÔNG TY TNHH CÔNG NGHỆ GIA ĐÌNH (FTECH CO., LTD)
Điện thoại: 1900636019 Email: info@fqa.vn
location.svg Địa chỉ: Số 21 Ngõ Giếng, Phố Đông Các, Phường Đống Đa, Thành phố Hà Nội, Việt Nam.
Tải ứng dụng FQA
Người chịu trách nhiệm quản lý nội dung: Đào Trường Giang Giấy phép thiết lập MXH số 07/GP-BTTTT do Bộ Thông tin và Truyền thông cấp ngày 05/01/2024
Copyright © 2023 fqa.vn All Rights Reserved