Kiều Vân Với những áng thơ của thế kỷ XX, các tác giả đã chọn hướng sáng tác chủ đạo là khai thác những khía cạnh lịch sử vẻ vang của dân tộc, khơi dậy tình yêu nước và tìm kiếm những ý tưởng mới mẻ để phát triển đất nước. Các nhà thơ đã gửi gắm lòng nhiệt huyết của mình vào mỗi tác phẩm. Trong số đó, "Hai Chữ Nước Nhà" là một tác phẩm xuất sắc của Trần Tuấn Khải, tác giả đã nhập vai sâu sắc vào nhân vật, sử dụng thể thơ tinh tế và dòng tâm sự chân thực để tái hiện cuộc sống của thế hệ chí sĩ yêu nước, đồng thời truyền tải nhiệt huyết của mình đến những thế hệ trẻ của một dân được viết trong tập "Bút Quan Hoài I" vào năm 1924. Mỗi suy nghĩ của tác giả dường như đã được truyền tải một cách hoàn hảo nhờ thể thơ song thất lục bát tinh tế, mang đến nhiều cảm xúc cho người đọc.
Nội dung của bài thơ, dù quen thuộc nhưng vẫn gây ấn tượng mạnh bởi đề tài yêu nước được thể hiện qua những lời tâm sự chân thực và mong mỏi của người cha - một nhà chí sĩ, nhà anh hùng và vị quan tài giỏi. người cha đã giúp con trai hiểu được hoàn cảnh đất nước và quy luật thịnh suy của các triều đại.
Những tội ác mà bọn giặc gây ra đã mang đến đau khổ cho người dân vô tội. Người cha, dẫu phải gạt bỏ tình riêng, vẫn nuôi dưỡng ước mơ về một tương lai đầy trách nhiệm với tổ quốc, nối tiếp sự nghiệp đánh đuổi giặc và giải phóng đất nước.
Bài thơ có thể chia thành ba phần rõ rệt. Phần một thể hiện tâm trạng của người cha trước khi rời xa đất nước. Phần hai miêu tả cảnh ngộ nước mất nhà tan. là lời dặn dò và trao gửi tâm nguyện cứu nước cho người con. Ngay từ nhan đề "Hai Chữ Nước Nhà," bài thơ đã gây ấn tượng mạnh mẽ.
"Nước" chỉ chung dân tộc, "nhà" chỉ nơi thân thiết. Trong hoàn cảnh lịch sử hay thời hiện đại, hai từ này vẫn đi kèm nhau, thể hiện sự gắn bó sâu sắc và quan trọng đối với mỗi con người. Nhưng trong thời kỳ phong kiến lầm than, giặc bán nước cướp nước, hai từ này càng trở nên không thể tách rời và sâu sắc, minh chứng qua câu nói "Nước mất nhà tan."
Tình yêu gia đình phải nâng lên thành tình yêu nước, và thù nhà chỉ được giải quyết khi nợ nước được trả. Nhà yêu nước Nguyễn Phi Khanh đã giúp con hiểu rằng tình cảm cá nhân, lòng hiếu thảo với cha mẹ phải được hòa quyện trong tình yêu nước lớn lao.
Không thể ngừng suy nghĩ và liên tưởng đến cảnh chia ly xúc động, nơi vùng biên giới trở nên ảm đạm và buồn đau, nơi mà hàng vạn chiến sĩ yêu nước đã ra đi, chỉ kịp nói lời vĩnh biệt tổ quốc trong lặng lẽ. Nỗi đau của nhà chí sĩ phải dồn nén, gợi mở ra niềm tin quý báu cho con trong những phút giây gặp gỡ cuối cùng, được thể hiện rõ trong từng câu thơ đầy hình ảnh và cảm xúc lắng đọng ở phần đầu.
"Chốn ải Bắc mây sầu ảm đạm,
Cõi giời Nam gió thảm đìu hiu.
Bốn bề hổ thét chim kêu,
Đoái nom phong cảnh như khêu bất bình."
Qua những lời thơ, ta thấy không chỉ là cuộc trò chuyện chân thành giữa hai người đàn ông mà còn là lời trăng trối thiêng liêng, nặng ân tình và ý nghĩa lớn lao. Cuộc chia ly diễn ra trong nỗi buồn và căm tức quân giặc nhưng đầy bất lực, khiến người con phải khắc cốt ghi tâm.
Người con trai duy nhất muốn đi theo để báo hiếu, nhưng người cha mẫu mực đã gạt bỏ tình riêng, mang theo nợ nước thù nhà thiêng liêng và đặt lên vai người con như một khẩn nguyện cuối cùng.
"Hạt máu nóng thấm quanh hồn nước
Chút thân tàn lần bước dậm khơi
Trông con tầm tã châu rơi
Con ơi con nhớ lấy xuất thân của dân tộc và khí phách quật cường luôn tồn tại. Quan trọng nhất là lời dặn dò về lòng tự hào dân tộc.
"Giống Hồng Lạc hoàng thiên đã định Mấy ngàn năm suy thịnh đổi thay Trời Nam riêng một cõi này Anh hùng, hiệp nữ xưa nay kém gì!"
Lời nhắc đầy tự hào về lịch sử quê hương "giống Hồng Lạc" đã trở thành nữ hiệp cứu nước."
Tiếp đó, những lời than thở đầy hận thù và bế tắc khi nói đến
"Than vận nước gặp khi biến đổi
Ðể quân Minh thừa hội xâm lăng
Bốn phương khói lửa bừng bừng
Xiết bao thảm họa xương rừng máu sông! …"
Tác giả đã tận dụng ý nghĩa của thể thơ để gửi gắm tâm sự
“Càng nói thì lại càng đau,” người cha mẫu mực và đầy chí khí anh hùng bật tiếng khóc nghẹn ngào cho hoàn cảnh "lực bất tòng tâm" của chính mình, cố khuyên con những điều tâm huyết nhất vì giang sơn.
"Cha xót phận tuổi già sức yếu
Lỡ sa cơ đành chịu bó tay
Thân lươn bao quản vũng lầy
Giang sơn gánh vác sau này cậy con"
Tác giả như đắm mình vào cảm xúc của nhân vật, tự hào về những chiến tích lịch sử rạng ngời của đất nước.
"Con nên nhớ tổ tông khi trước
Ðã từng phen vì nước gian lao
Bắc Nam bờ cõi phân mao
Những câu thơ đậm tình yêu nước từ thể thơ cổ điển đã khắc họa sâu đậm vấn đề tầm vóc thời đại.
Hơn hết, người cha tin tưởng vào thế hệ trẻ và tương lai của đất nước, rằng họ sẽ làm nên những điều to lớn để duy trì sự vững bền của dân tộc.
"Hai Chữ Nước Nhà" là một trong những bài thơ hay nhất của Trần Tuấn Khải. Bài thơ không chỉ là lời trăng trối của nhà yêu nước Nguyễn Phi Khanh mà còn là sự gửi gắm lòng yêu nước bất diệt, trách nhiệm của thế hệ trẻ trong việc tạo nên sức sống vĩnh cửu cho đất nước.