Bằng Việt thuộc thế hệ nhà thơ trưởng thành trong kháng chiến chống Mỹ cứu nước. Thơ Bằng Việt thường giàu chất trí tuệ, nhẹ nhàng, tinh tế. Bài thơ “Bếp lửa” được sáng tác năm 1963 khi ông đang là sinh viên theo học ngành Luật ở nước ngoài. Bài thơ đã gợi lại những kỉ niệm đầy xúc động về người bà và tình bà cháu, đồng thời thể hiện lòng kính yêu, trân trọng và biết ơn của người cháu với bà, với gia đình, quê hương, đất nước. “Bếp lửa” chính là một biểu tượng mang ý nghĩa thực và mang ý nghĩa ẩn dụ. Bếp lửa thực là nơi nhóm lên ngọn lửa để nấu nướng, sưởi ấm. Bếp lửa còn là ngọn lửa hồng ẩn dụ cho sự sống, niềm tin, tình yêu thương, niềm hy vọng… Hình ảnh bếp lửa xuyên suốt cả bài thơ, trở đi trở lại nhiều lần như điểm hồi ức của nhà thơ, lúc thì mờ nhạt, lúc lại rực cháy.
Hình ảnh bếp lửa gắn liền với hình ảnh người bà trong suốt bài thơ. Đó là hình ảnh người bà tần tảo, giàu đức hi sinh, yêu thương cháu hết lòng, là chỗ dựa tinh thần cho cháu vơi đi nỗi buồn, vững bước trên đường đời. Bà nhóm bếp lửa mỗi sớm mai là nhóm lên niềm vui, nhóm lên hạnh phúc, nhóm lên khát vọng và niềm tin cho cháu bà. Người bà trong bài thơ là người phụ nữ Việt Nam nhân hậu, bao dung, giàu đức hi sinh, là người vợ đảm đang, thủy chung, là người mẹ hiền, người bà mẫu mực. Bà cũng là hiện thân của cội nguồn con người, cội nguồn dân tộc. Ngọn lửa mà bà nhóm lên không chỉ bằng nhiên liệu củi rơm mà còn bằng hơi ấm, niềm tin yêu, sự hi vọng, ước mơ… Chính vì vậy, dù trải qua biết bao khó khăn gian khổ, dù đất trời có khắc nghiệt thì bà vẫn kiên trì, bền bỉ nhóm lửa. Từ đó, người cháu cảm nhận sâu sắc về vẻ đẹp tâm hồn và ý chí của bà. Bà đã nhóm lửa, giữ lửa và truyền lửa - ngọn lửa của sự sống, niềm tin cho các thế hệ nối tiếp.
Bài thơ “Bếp lửa” của Bằng Việt là một bài thơ hay và xúc động viết về tình bà cháu. Qua hình tượng bếp lửa, bài thơ ca ngợi tình cảm thiêng liêng sâu nặng giữa bà và cháu. Tình cảm ấy cũng là tình yêu quê hương đất nước.