Bài Thơ Thương Vợ của Tế Xương liên hệ với tác phẩm văn học trung đại nào để hiểu rõ hơn về tình yêu và lòng biết ơn của nhà thơ dành cho vợ mình

ADS
Trả lời câu hỏi của Phương Linh
  • Câu trả lời phải chính xác, đầy đủ dựa trên kiến thức xác thực:
    • ✔ Đối với câu hỏi trắc nghiệm: Đưa đáp án lựa chọn + giải thích lý do chọn đáp án.
    • ✔ Đối với câu hỏi tự luận: Đưa lời giải và đáp án cho câu hỏi.
    • ✔ Đối với câu hỏi trả lời ngắn: Đưa ra đáp án + giải thích lý do.
    • ✔ Chấp nhận sử dụng ảnh do thành viên viết tay, ảnh cần rõ nét, không bị mờ, vỡ ảnh.
  • Sử dụng ngôn ngữ rõ ràng, dễ hiểu.
  • Tránh đưa ra các ý kiến cá nhân mang tính chất chủ quan.
  • Nếu sử dụng thông tin từ nguồn khác, phải trích dẫn nguồn đầy đủ và chính xác.
  • Tuyệt đối không được sao chép các thông tin từ các trang khác, từ AI hoặc chatGPT.
ADS
CÂU TRẢ LỜI
avatar
Timi

26/10/2024

Trợ lý học tập AI - Câu trả lời này chỉ mang tính tham khảo
Bài thơ "Thương vợ" của Tú Xương có thể được so sánh với bài thơ "Chinh phụ ngâm khúc" của Đặng Trần Côn, một tác phẩm nổi tiếng trong văn học trung đại Việt Nam. Cả hai bài thơ đều thể hiện tình cảm sâu sắc và lòng biết ơn của người chồng đối với vợ. Trong "Chinh phụ ngâm khúc", người chinh phụ phải chịu đựng nỗi cô đơn và đau khổ khi chồng đi xa chiến trận. Bà không chỉ là người chăm sóc gia đình mà còn là nguồn động viên tinh thần cho chồng. Tương tự như vậy, bà Tú trong "Thương vợ" cũng đảm nhận nhiều vai trò quan trọng trong gia đình, từ việc buôn bán đến nuôi dạy con cái. Bài thơ này nhấn mạnh sự hy sinh và vất vả của bà Tú, đồng thời bày tỏ lòng biết ơn và trân trọng của ông Tú đối với vợ. Tuy nhiên, điểm khác biệt giữa hai bài thơ nằm ở cách diễn đạt tình cảm. Trong "Chinh phụ ngâm khúc," tình cảm của người chinh phụ thường được giấu kín và thể hiện qua những lời than thở thầm lặng. Ngược lại, ông Tú trong "Thương vợ" trực tiếp bày tỏ tình cảm của mình thông qua ngôn ngữ hài hước nhưng chân thành. Tóm lại, cả hai bài thơ đều phản ánh tình cảm và lòng biết ơn của người chồng đối với vợ, tuy nhiên chúng có phong cách diễn đạt riêng biệt.
Hãy giúp mọi người biết câu trả lời này thế nào?
1.0/5 (1 đánh giá)
thumb up 0
thumb down
0 bình luận
Bình luận
avatar
level icon
MIna Hana

26/10/2024

Nói về thơ trào phúng không ai có thể bỏ qua Tú Xương, một giọng thơ châm biếm, đả kích sắc bén, quyết liệt và dữ dội hiếm có. Chế Lan Viên từng viết: " Tú Xương nhìn như mảnh vỡ thuỷ tinh ". Nhưng Trần Tế Xương đâu là một nhà thơ hiện thực chủ nghĩa điển hình, giống như Nguyễn Tuân, chất hiện thực ấy chính là " chân trái ", mà " chân phải " của ông là chất lãng mạn. Trân trọng khâm phục và nhớ về thơ Tú Xương nhiều hơn có lẽ vì người đời được lắng nghe nhịp đập của một trái tim chân thành, đầy tình cảm, biết trọng nhân cách, với một nỗi đau thăm thẳm không nguôi. Buồn vì không có điều kiện để giúp đỡ một người nghèo, một đồng bào cùng cảnh ngộ, ông thề độc: " Cha thằng nào có tiền không cho ". Mang nỗi đau tột cùng của một tri thức, ông chua chát: " Nhân tài đất Bắc kìa ai đó! /Ngoảnh mặt mà nhìn cảnh này ". Đó là ngoài đời, còn trong nhà ông luôn bị dày vò bởi cảm giác thiếu trách nhiệm, Tú Xương " thương vợ ", có chồng vẫn phải đóng vai phụ, ông tự nhận cái sự " hờ hững " của mình.

Chắc rằng các cụ ông ngày xưa phần lớn là thương vợ thương con, nhưng vì một quan niệm nào đấy, thường ngại bộc lộ tình cảm của người chồng, nhất là lại thể hiện tình cảm với người vợ một cách trực tiếp qua giấy trắng mực đen, qua văn chương thì lại càng ít. Thế kỉ XIX, có hai nhà thơ cùng người thành Nam, Nguyễn Khuyến và Tú Xương, đã không ngần ngại nói lên tình thương yêu của người chồng đối với vợ ngay khi các bà còn đang sống. Nhưng về chủ đề này, Thương vợ cua Tú Xương là bài thơ nổi tiếng hơn cả:

"Quanh năm buôn bán ở mom sông,

Nuôi đủ năm con với một chồng.

Lặn lội thân cò khi quãng vắng,

Eo sèo mặt nước buổi đò đông.

Một duyên hai nợ âu đành phận,

Năm nắng mười mưa dám quản công

Cha mẹ thói đời ăn ở bạc,

Có chồng hờ hững cũng như không".

<iframe class="ql-video" frameborder="0" allowfullscreen="true"></iframe>


Nổi bật trong bài thơ là hình ảnh hai con người: một người vợ tần tảo giàu đức hy sinh và một người chồng luôn biết chia sẻ, yêu thương và trân trọng vợ rất mực. Hai câu thơ đầu giới thiệu về công việc của bà Tú cũng như trách nhiệm nặng nề của bà: "Quanh năm buôn bán ở mom sông/Nuôi đủ năm con với một chồng". Buôn bán cũng là một nghề như bao nghề khác, người phụ nữ làm để kiếm tiền. Người xưa cũng coi đây là nghề độc nhất nếu muốn giàu có (phi thương bất phú) . Nhưng việc kinh doanh của bà Tú lại không được như thế. Chẳng có nhà hàng, cửa hiệu, khách sạn gì, mà chỗ bà "buôn bán" là ở "mom sông". Hai chữ "mom sông" đã gợi nên hình ảnh một khoảnh đất nhô ra ở ven bờ, khi nước cạn thì được, nước dâng sẽ tan, có thuyền qua lại thì thành chợ không ngủ, cũng có thể chợ nhóm họp một lát vào buổi sáng hay buổi xế chiều. Lèo tèo đôi ba gánh hàng, chỗ dành cho người bán rong, vốn liếng nhỏ nhoi, bấp bênh, tất nhiên thu nhập chẳng đáng là bao. Thế mà công việc khó nhọc ấy, bà Tú không thể chịu đựng một hai ngày mà cứ làm "quanh năm". Chữ "quanh năm" gợi một thời gian đằng đẵng, là 12 tháng, từ tháng giêng đến tết, cũng có nghĩa là hết năm này sang năm nọ. Cái công việc vất vả ấy dường như theo đuổi bà Tú suốt cả cuộc đời, nhưng nó chẳng thể giúp gia đình bà khấm khá hẳn lên để có việc khác nhàn hạ hơn hay phát triển nghề "buôn bán" ở một cấp độ cao hơn. Công việc thì nhọc nhằn, thu nhập thì thấp, nhưng bà Tú vẫn có thể lo toan được cả một gia đình sáu miệng ăn. Hơn nữa, không phải là sáu mà lại là "năm con với một chồng", "Năm con" là ít, nhưng dẫu sao cũng chấp nhận được, lo lắng cho chúng khi thiếu miếng ăn, manh áo. Nhưng ông chồng, là "một", tất nhiên là chi phí cho cả năm đứa con kia. Có khi còn hơn thế nhiều! Mỗi khi ông phải đi xa là tiền lưng gạo bị lại đổ lên vai vợ, chưa kể những khi đồng chè đồng rượu,..... Nhiều khoản chi tiêu như vậy nhưng lúc nào bà cũng lo "đủ ". Thật là đảm đang tháo vát quá, chiều chồng đến chừng nào!

<iframe class="ql-video" frameborder="0" allowfullscreen="true"></iframe>


Được cái tiếng thơm ấy, thật không dễ dàng gì, bà Tú phải đổi bằng biết bao công sức: "Lặn lội thân cò khi quãng vắng/Eo sèo mặt nước buổi đò đông". Câu thơ gợi hình ảnh con cò trong những câu ca dao quen thuộc: "Con cò lặn lội bờ sông/ Gánh gạo đưa chồng tiếng khóc nỉ non/ ... Con cò mà đi ăn đêm/ Đậu phải cành mềm lộn cổ xuống ao". Hình ảnh về một loài chim hiền lành, chăm chỉ âm thầm nhặt nhạnh, kiếm ăn nơi ruộng lúa, bãi sông đã trở thành biểu tượng về những người phụ nữ lam lũ suốt đời vì chồng, vì con, chẳng mấy khi nghĩ đến bản thân mình. Trong thơ Tú Xương, không phải là con cò mà là thân cò. Không còn là một con vật cụ thể mà là thân phận, số phận, một cái gì rất mỏng manh, nhỏ bé trước biết bao vần vũ của cuộc đời. Yếu đuối quá, bị động quá mà luôn phải lăn lộn, bươn chải. Khi quãng vắng thì lặn lội; buổi đò đông thì chịu cảnh eo sèo. Hai tính từ được đối nhau ở đầu hai câu thơ vừa giàu tính tạo hình vừa giàu tính biểu hiện. Kia một người phụ nữ gầy yếu như thân cò, gánh nặng trên vai, một thân một mình, bước trầy trật trên con đường lầy lội. Hàng cất về rồi, tránh mưa gió thì mất tiền, nên phải lặn lội ra đi. Và kia nữa cũng thân cò ấy lại phải xù lông xù cánh chao chát, cãi cọ tranh mua tranh bán, tranh xuống cho kịp đò, tranh lên cho kịp chợ. Chỗ đông người thì vã mồ hôi, quãng vắng thì trào nước mắt. Nhưng đó là bà Tú trong con mắt của ông Tú, còn với bà không hề có một lời kêu ca phàn nàn mà là một thái độ chịu đựng vốn thường có của người phụ nữ phương Đông: "Một duyên hai nợ âu đành phận/Năm nắng mười mưa dám quản công". Trong mối quan hệ vợ chồng, duyên là cái căn nguyên từ trước, do đó, mà vợ chồng lấy được nhau hoặc lấy phải nhau. Từ ý nghĩa vừa nói, dân gian cũng đã làm ra một cặp khái niệm khác nhau: duyên và nợ (Một duyên, hai nợ, ba tình. Chồng gì anh, vợ gì tôi, đó là cái nghĩa chi đây. ..) . Như vậy trong dân gian " một duyên hai nợ " là ám chỉ sự bất hạnh của cuộc đời người con gái. Nhưng ở đây trong thế so sánh với câu dưới. Một duyên hai nợ trong câu thơ của Tú Xương đã có ý nghĩa khác hoàn toàn: một, hai không phải là số đếm nữa mà là số tính và số nhân: duyên chỉ có một mà nợ đến cả hai duyên thì ít mà nợ lại lớn. Bà Tú lấy được ông Tú nghĩ cho kỹ đó cũng là phúc. Ông cũng đỗ đạt hơn người bình thường đôi chút. Chỉ có thế thôi. Chứ nếu ông là chồng mà lại làm dở ương, khoán trắng. Tiền bạc phó cho con mụ làm; nói ông quan ấy ăn lương vợ. .. thì quả là một thứ nợ đời. Duyên thì ít mà nợ lại lớn là như thế. Cái vất vả, cực nhọc của lặn lội thân cò ở câu thơ trên đến đây đã được đẩy lên thành cái vất vả, gian truân của một số phận là định mệnh của cả một kiếp người thì nặng nề và cay đắng biết bao nhiêu. Đã là số phận thì phải âu đành. Âu có nghĩa là khổ mà đành cũng là phận. Một câu thơ mà cả hai lần chịu đựng. Vì cam chịu nên Năm nắng mười mưa dám quản công là vậy. Cho dầu nắng mưa đến mấy (Năm nắng mười mưa) bà cũng không một chút ngại ngần và chẳng tiếc chi công sức của mình. Dám quản công là chẳng những chỉ có tác dụng như đã nêu mà còn cho thấy tính gìn giữ. Nổi lên thêm từ hai câu thơ là sự hy sinh, chịu đựng thầm lặng của người hiền phụ. Đây cũng là phẩm chất tốt đẹp của người phụ nữ Việt Nam từ trước đến nay. Đã thấy tấm lòng thương vợ của thi nhân là thấm thía và sâu sắc biết bao.

<iframe class="ql-video" frameborder="0" allowfullscreen="true"></iframe>


Sau cùng, hai câu kết của bài thơ là một lời chửi rủa: "Cha mẹ thói đời ăn ở bạc/ Có chồng hờ hững cũng như không!" Thác lời của bà Tú, nhà thơ đã chửi rủa chính cái bạc bẽo và cái vô tích sự của người chồng nghĩa là của chính mình. Tất cả nỗi thương vợ cùng với sự bất lực giận mình, giận đời đã lắng đọng trong tiếng chửi rủa đầy day dứt, xót xa kia. Nhưng thực sự ông có bạc bẽo, hờ hững với vợ mình không? Điều này khó trả lời. Nhưng ngẫm cho cùng, bài thơ này đã giải đáp phần nào câu hỏi ấy. Hơn nữa, tự coi mình cũng như không cũng như một người thừa, một kẻ hờ hững sống đấy mà cũng như đã chết thì tuy đó là lời rủa mình nhưng cũng là lời ca ngợi và đề cao công ơn của vợ. Tuy là một lời chửi rủa nhưng hai câu thơ kết vẫn đượm thắm màu sắc vui đùa. Nhà thơ phán xét tự trách mình cũng là cách biểu hiện sự thương cảm sâu xa với vợ. Ông nói ăn ở bạc nhưng lòng ông không bạc, không hờ hững với bà chút nào cả. Như vậy Thương vợ đúng là một bài thơ hay cho ta hình dung được nỗi lòng thương yêu mênh mông chân thành và sâu sắc của nhà thơ đối với người vợ chịu thương, chịu khó, hi sinh, khó nhọc, vất vả một cách lặng thầm vì gánh nặng chồng con. Với một bài thơ trữ tình giàu hình ảnh, nhạc điệu, ngôn ngữ tự nhiên, dân dã, nhà thơ không những đã thể hiện được tình cảm ấy của mình mà còn tạo nên được một bức chân dung bất hủ có tính truyền thống của người phụ nữ Việt Nam với đầy đủ các đức tính đáng quý là đảm đang, cần cù, nhẫn nại, hi sinh.


Hãy giúp mọi người biết câu trả lời này thế nào?
0/5 (0 đánh giá)
thumb up 0
thumb down
0 bình luận
Bình luận
ADS

Nếu bạn muốn hỏi bài tập

Các câu hỏi của bạn luôn được giải đáp dưới 10 phút

Ảnh ads

CÂU HỎI LIÊN QUAN

logo footer
FQA.vn Nền tảng kết nối cộng đồng hỗ trợ giải bài tập học sinh trong khối K12. Sản phẩm được phát triển bởi CÔNG TY TNHH CÔNG NGHỆ GIA ĐÌNH (FTECH CO., LTD)
Điện thoại: 1900636019 Email: info@fqa.vn
Location Địa chỉ: Số 21 Ngõ Giếng, Phố Đông Các, Phường Ô Chợ Dừa, Quận Đống Đa, Thành phố Hà Nội, Việt Nam.
Tải ứng dụng FQA
app store ch play
Người chịu trách nhiệm quản lý nội dung: Nguyễn Tuấn Quang Giấy phép thiết lập MXH số 07/GP-BTTTT do Bộ Thông tin và Truyền thông cấp ngày 05/01/2024
Copyright © 2023 fqa.vn All Rights Reserved
gift-box
survey
survey
Đặt câu hỏi