Phân tích, đánh giá, nội dung, nghệ thuật bài thơ Đây Thôn Vỹ Dạ

thumb up 0
thumb down
Trả lời câu hỏi của Nhật Nguyễn
  • Câu trả lời phải chính xác, đầy đủ dựa trên kiến thức xác thực:
    • ✔ Đối với câu hỏi trắc nghiệm: Đưa đáp án lựa chọn + giải thích lý do chọn đáp án.
    • ✔ Đối với câu hỏi tự luận: Đưa lời giải và đáp án cho câu hỏi.
    • ✔ Đối với câu hỏi trả lời ngắn: Đưa ra đáp án + giải thích lý do.
    • ✔ Chấp nhận sử dụng ảnh do thành viên viết tay, ảnh cần rõ nét, không bị mờ, vỡ ảnh.
  • Sử dụng ngôn ngữ rõ ràng, dễ hiểu.
  • Tránh đưa ra các ý kiến cá nhân mang tính chất chủ quan.
  • Nếu sử dụng thông tin từ nguồn khác, phải trích dẫn nguồn đầy đủ và chính xác.
  • Tuyệt đối không được sao chép các thông tin từ các trang khác, từ AI hoặc chatGPT.
CÂU TRẢ LỜI
avatar
Timi

04/11/2024

Trợ lý học tập AI - Câu trả lời này chỉ mang tính tham khảo
Hàn Mặc Tử là một nhà thơ có sức sáng tạo mạnh mẽ nhất trong phong trào Thơ mới. Ông để lại nhiều tập thơ đặc sắc như Gái quê (1936), Thơ Điên (1938), Chơi giữa mùa trăng... Bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ được rút ra từ tập Thơ Điên; nói về nỗi buồn của tác giả đối với cảnh và con người xứ Huế, nơi từng gắn bó máu thịt với cuộc đời thi sĩ.

Bài thơ mở đầu bằng bức tranh thiên nhiên đẹp, đầy sức sống của thôn Vĩ bên dòng Hương Giang êm đềm:

Sao anh không về chơi thôn Vĩ?
Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên
Vườn ai mướt quá xanh như ngọc
Lá trúc che ngang mặt chữ điền.

Câu hỏi tu từ "Sao anh không về chơi thôn Vĩ?" vừa là lời trách móc nhẹ nhàng vừa là lời mời gọi chân thành tha thiết của cô gái nào đó ở thôn Vĩ. Câu hỏi ấy cứ day dứt mãi tâm trí nhà thơ khiến cho anh phải trở về thôn Vĩ trong tưởng tượng. Bức tranh thiên nhiên hiện lên thật tươi tắn, bình yên và tràn trề sức sống. Đó là hình ảnh những hàng cau vươn mình đón ánh nắng sớm "nắng mới lên" lấp lánh như ngọc bích. Là màu xanh mướt của vườn cây sum suê trái ngọt "vườn ai mướt quá xanh như ngọc". Và thấp thoáng đâu đó hình ảnh cô gái Huế dịu dàng, e ấp, kín đáo dưới bóng trúc thanh cao, mảnh mai. Tất cả đã làm nên nét đẹp rất riêng của Vĩ Dạ mà chỉ có những người yêu quê mới cảm nhận được.

Tiếp đến là hình ảnh sông nước mênh mang, mơ màng của đêm trăng nơi xứ Huế:

Gió theo lối gió mây đường mây
Dòng nước buồn thiu hoa bắp lay
Thuyền ai đậu bến sông trăng đó
Có chở trăng về kịp tối nay?

Trong ca dao xưa thường xuất hiện các hình ảnh quen thuộc như "con đò", "cây cầu", "dòng sông"... thì trong thơ Hàn Mặc Tử cũng xuất hiện hình ảnh "sông trăng". Trăng vốn là hình ảnh quen thuộc trong thơ cổ nhưng đến Hàn Mặc Tử thì nó mới thực sự có hồn. Dòng Hương giang vốn hiền hòa, thơ mộng nay lại trở nên lung linh, huyền ảo hơn khi có thêm ánh trăng soi rọi xuống. Hai bên bờ sông là những bông hoa bắp lay khẽ đung đưa theo chiều gió. Cảnh vật tuy động mà vẫn tĩnh, vẫn buồn vì dường như tất cả đều nhuốm màu tâm trạng của thi nhân. Câu hỏi tu từ "Có chở trăng về kịp tối nay?" thể hiện nỗi băn khoăn, lo lắng và hi vọng của Hàn Mặc Tử. Nhà thơ đang mong chờ một điều gì đó sẽ đến trong đêm nay. Phải chăng đó chính là hình bóng của người thương?

Nếu như hai khổ thơ trên là cảnh sắc thiên nhiên tươi đẹp của thôn Vĩ thì đến khổ thơ cuối ta lại bắt gặp một thế giới hoàn toàn khác - thế giới nội tâm đầy đau đớn của thi nhân:

Mơ khách đường xa, khách đường xa
Áo em trắng quá nhìn không ra
Ở đây sương khói mờ nhân ảnh
Ai biết tình ai có đậm đà?

Bệnh phong đã cướp đi của Hàn Mặc Tử cả sức khỏe lẫn tinh thần. Ông phải sống biệt lập với thế giới bên ngoài, chỉ còn biết gửi gắm tâm sự vào thơ ca. Vì vậy mà ông luôn sống trong mặc cảm, tuyệt vọng. Ông tự coi mình là "khách đường xa", là người ở lại phía sau, bị bỏ lại phía sau. Hình ảnh "áo em trắng quá nhìn không ra" gợi liên tưởng tới sự trong trắng, tinh khôi của cô gái Huế. Nhưng đồng thời cũng ẩn chứa sự xa cách, lạnh lẽo bởi "trắng quá" khiến cho nhà thơ không thể nhìn rõ nữa. Câu hỏi tu từ "Ai biết tình ai có đậm đà?" vừa là lời bộc bạch nỗi lòng của bản thân vừa là câu hỏi hướng tới cô gái Huế. Nhà thơ tự hỏi liệu rằng cô gái ấy có hiểu cho tấm lòng của ông hay không? Có chung nỗi niềm, có chung tình cảm sâu nặng như ông dành cho xứ Huế hay không?

Với ngôn ngữ giàu sức gợi, hình ảnh thơ độc đáo cùng giọng điệu da diết, khắc khoải, Hàn Mặc Tử đã vẽ nên bức tranh thôn Vĩ Dạ tươi đẹp, thơ mộng nhưng cũng đầy u sầu, phiền muộn. Qua đó, ta thấy được tình yêu thiên nhiên, yêu con người xứ Huế nồng nàn của thi nhân.
Hãy giúp mọi người biết câu trả lời này thế nào?
1.0/5 (1 đánh giá)
thumb up 0
thumb down
0 bình luận
Bình luận

Nhật NguyễnBài thơ "Đây Thôn Vỹ Dạ" của tác giả Hàn Mặc Tử là một trong những tác phẩm tiêu biểu của phong trào Thơ mới, thể hiện tình yêu quê hương, nỗi nhớ và khát khao sống, đồng thời thể hiện tâm trạng của một thi sĩ trong hoàn cảnh bệnh tật. Dưới đây là phân tích và đánh giá về nội dung và nghệ thuật của bài thơ.

1. Nội dung bài thơ

Tình yêu quê hương: Bài thơ mở đầu với hình ảnh thiên nhiên tươi đẹp của Thôn Vỹ, nơi tác giả đã gắn bó trong những năm tháng ấu thơ. Những hình ảnh như "những đồi hoa" hay "dòng sông" không chỉ gợi lên vẻ đẹp của cảnh vật mà còn gợi nhớ về một thời tuổi trẻ đầy ắp kỷ niệm. Tình yêu quê hương thể hiện rõ nét qua cảm xúc và hình ảnh, tạo ra một không gian thơ mộng, gần gũi.

Nỗi nhớ và khát khao: Tác giả thể hiện nỗi nhớ quê hương và con người qua những dòng thơ đầy cảm xúc. Hàn Mặc Tử không chỉ nhớ về quê hương mà còn nhớ về những con người đã sống cùng mình, tạo nên những kỷ niệm đẹp trong quá khứ. Nỗi nhớ được thể hiện một cách da diết, mang lại cho người đọc cảm giác đồng cảm và thấu hiểu.

Tâm trạng lạc lõng: Bên cạnh tình yêu quê hương, bài thơ còn phản ánh tâm trạng của tác giả trong hoàn cảnh bệnh tật. Hàn Mặc Tử đang phải chịu đựng những cơn đau đớn về thể xác và tâm hồn. Những câu thơ thể hiện sự cô đơn, lạc lõng và khát khao sống mãnh liệt của một con người đang đối diện với cái chết.

2. Nghệ thuật bài thơ

Thể thơ: Bài thơ được viết theo thể thơ tự do, không bị ràng buộc bởi quy tắc số câu hay số chữ trong mỗi dòng, điều này tạo ra một không gian sáng tạo tự do cho tác giả.

Biện pháp tu từ: Hàn Mặc Tử sử dụng nhiều biện pháp tu từ như ẩn dụ, so sánh, nhân hóa để làm nổi bật hình ảnh thiên nhiên và tâm trạng của mình. Ví dụ, hình ảnh "dòng sông" được ví như một dòng chảy của kỷ niệm, hay "đồi hoa" là biểu tượng cho tình yêu và nỗi nhớ.

Âm điệu và nhịp điệu: Âm điệu trong bài thơ nhẹ nhàng, du dương, phản ánh tâm trạng thanh thoát của tác giả. Nhịp điệu thay đổi linh hoạt, tạo cảm giác nhẹ nhàng, uyển chuyển như chính những hình ảnh thiên nhiên mà tác giả miêu tả.

3. Đánh giá chung

"Đây Thôn Vỹ Dạ" không chỉ là một bài thơ hay về thiên nhiên mà còn là một tác phẩm giàu giá trị về mặt cảm xúc. Hàn Mặc Tử đã khéo léo kết hợp giữa hình ảnh thiên nhiên và tâm trạng con người, tạo nên một bức tranh thơ đẹp và đầy ý nghĩa. Bài thơ đã thể hiện được tình yêu quê hương tha thiết, nỗi nhớ và khát khao sống mãnh liệt của một thi sĩ trong hoàn cảnh đau đớn, từ đó để lại ấn tượng sâu sắc trong lòng người đọc.

Qua bài thơ, Hàn Mặc Tử không chỉ truyền tải thông điệp về tình yêu quê hương mà còn khơi dậy trong mỗi chúng ta những cảm xúc về những gì đã qua, nhắc nhở chúng ta trân trọng từng khoảnh khắc của cuộc sống.



Hãy giúp mọi người biết câu trả lời này thế nào?
0/5 (0 đánh giá)
thumb up 0
thumb down
0 bình luận
Bình luận
avatar
level icon
Duy Hùng

04/11/2024

Nhật Nguyễn

“Ai mua trăng tôi bán trăng cho

Không bán đoàn viên, ước hẹn hò.”

Nhắc đến những dòng thơ này, người đọc chắc hẳn không còn lạ lẫm gì với hình ảnh “bán trăng” của Hàn Mạc Tử. Một sự nghịch lí, lạ đời vì trăng cũng là chung cũng là của riêng mọi người, hà cớ sao lại “bán”. Thế nhưng, từ hình ảnh này người ta mới thấy tấm lòng thủy chung, son sắt của nhà thơ. Và một lần nữa sự thủy chung ấy lại được tái hiện qua “Đây thôn Vĩ Dạ”. Tác phẩm không những là bức tranh thủy mặc về một vùng của cố đô Huế mà nó còn là nỗi lòng gửi tới phương xa của nhà thơ Hàn Mạc Tử.

Mở đầu bài thơ, không phải là lời chào mà là lời trách móc: “Sao anh không về chơi thôn Vĩ?”. Giọng điệu mang tính hỏi han, trách móc nhân vật trữ tình sao không về với thôn Vĩ, về với những kỉ niệm. Câu thơ còn nói lên sự tiếc nuối khi nhân vật trữ tình không thể chiêm ngưỡng được hết vẻ đẹp thôn Vĩ.

Sự tiếc nuối của người con gái đã nhắc đến âu cũng có căn cứ vì với một loạt “vẻ đẹp" sau đây thì dù ai bỏ lỡ chuyến về đều phải luyến tiếc.

“Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên

Vườn ai mướt quá xanh như ngọc

Lá trúc che ngang mặt chữ điền”

Ba câu thơ này đã bước đầu khắc họa bức tranh quê hương thôn Vĩ với vẻ đẹp trong sáng, thanh khiết. Ở câu thơ thứ hai tác giả khéo léo dùng biệp pháp điệp từ “nắng". Nếu như “nắng" ở vế đầu chỉ vị trí nó xuất hiện (nắng trên hàng cau) thì “nắng" ở vế sau lại nói về tính chất (nắng mới). Khung cảnh ở thôn Vĩ xuất hiện trước mắt người đọc là vẻ đẹp vườn tược, vẻ đẹp vùng nông thôn ngoại ô thành phố. Hàng cau chính là hình ảnh điển hình nhất cho vườn tược chốn Thừa Thiên, nhưng tác giả khéo léo hơn khi lồng vào hình ảnh này là một “gia vị" đậm chất Huế. Cái nắng ở đây xuất hiện với tính chất - mới. “Nắng mới" có thể hiểu là nắng buổi sáng, ánh nắng bắt đầu cho ngày mới. Nhưng ánh nắng này không chỉ bắt đầu cho một ngày mà còn khởi đầu cho một mùa xuân tươi trẻ. “Nắng mới" đi kèm với động từ “lên" tạo cảm giác tươi trẻ, tràn đầy sức sống và thi sĩ chính là người may mắn khi được chiêm ngưỡng khoảnh khắc này. Từ đó cho thấy sức sống căng tràn đang lan tỏa khắp miền quê thôn Vĩ.

Từ ánh nhìn “nắng hàng cau", tác giả đã chuyển qua quan sát “đối tượng" khác là vườn thôn Vĩ. Có thể thấy từ câu thơ này, góc nhìn của tác giả đã có sự dịch chuyển. “Vườn” hiện lên gần hơn, tầm nhìn của nhà thơ rất gần. Nghệ thuật tu từ “vườn ai" gợi lên sự tò mò, hiếu kì vì không xác định chủ nhân khu vườn này là ai. Nhưng cái người ta quan tâm không phải là danh tính người chủ khu vườn, mà quan trọng mà sự trong xanh của nó. Tác giả so sánh vườn với ngọc để cho thấy sự trong xanh, tinh khiết của khu vườn vào buổi sáng ban mai. Nhìn vào hình ảnh này người đọc tự nhiên có cảm giác nhẹ nhàng, thoải mái, cơ mắt cũng thực sự được thư giãn. Tuy nhiên, tài năng của Hàn Mạc Tử không đơn thuần chỉ có thế. Tác giả khéo “tặng" chữ “mướt" khi miêu tả màu sắc khu vườn. Từ này tạo cho người đọc cảm giác về sự trơn tru, tròn trịa và thêm phần mịn màng. Đã thế nó còn đi kèm với thán từ “quá" làm cho vườn tược của thôn Vĩ thêm phần thanh tao. Làm người đọc tò mò muốn được nhìn thấy một lần. Nếu như câu hai, câu ba giúp chúng ta có cái nhìn bao quát về thiên nhiên xứ Huế thì tới câu thứ tư nhà thơ đã giới thiệu về con người nơi đây. Hình ảnh “mặt chữ điền" chỉ về khuôn mặt phúc hậu, hiền từ và đây cũng là cách tác giả giới thiệu về tính cách con gái Huế. Ẩn mình sau nét đẹp ấy là chi tiết “lá trúc che ngang" gợi lên sự e ấp, ngại ngùng của cô gái xứ mộng mơ. Như vậy chỉ với khổ thơ đầu người đọc đã có cái nhìn đầu tiên về khung cảnh thôn Vĩ. Mảnh đất ở đây không chỉ hiện lên với vẻ đẹp tinh túy mà con người cũng rực rỡ muôn phần.

Đến với khổ thơ hai, độc giả tiếp tục chứng kiến những đường nét mà “thi sĩ" vẽ nên. Bức tranh ấy đã mở rộng cả về không gian lẫn thời gian.

“Gió theo lối gió, mây đường mây

Dòng nước buồn thiu, hoa bắp lay...

Thuyền ai đậu bến sông trăng đó,

Có chở trăng về kịp tối nay?

Mở đầu khổ hai, Hàn Mạc Tử mở rộng không gian thôn Vĩ bằng hình ảnh từ trên cao. Ở đây tác giả rất tinh tế khi sử dụng biệp pháp điệp cấu trúc câu và điệp từ đồng thời với nhau. “Gió" và “mây" được nhấn mạnh hai lần nhưng không phải cảm giác gắn bó, khăng khít mà là sự chia lìa. Vì gió đi lối riêng, mây lại có đường khác. Nếu như câu đầu tác giả nói về sự chia lìa nhưng bằng cách gián tiếp thì câu tiếp theo nhà thơ đã nhấn mạnh cảnh vật với tâm trạng sầu thảm bằng động từ “buồn thiu”. “Buồn thiu" là tâm trạng sầu thảm pha chút cô đơn. Và nhân vật mang tâm trạng này là “dòng nước". Bằng thủ thuật nhân hóa, tác giả đã ví dòng nước thôn Vĩ như một sinh vật có suy nghĩ, có tâm trạng. Cảnh vật chuyển mình mạnh mẽ từ tươi tắn lúc ban mai và lại mang nét hoài cổ vào thời điểm này. “Hoa bắp lay" có thể là một sự rung rinh khi có đợt gió đi qua làm rõ hơn sự buồn bã, đơn côi. Không gian đang ở trên cao liền được kéo xuống dưới thấp làm cho hình ảnh thêm phần sinh động . Ý đồ của tác giả thực sự xuất sắc khi để cho cái buồn của thiên nhiên hiện ra trước, làm người đọc tò mò, suy nghĩ rồi tác giả mới đưa ra cái trầm tư của con người.

“Thuyền ai đậu bến sông Trăng đó,

Có chở trăng về kịp tối nay?”

Nếu như câu hỏi tu từ ở khổ thơ đầu tiên mang nét trách móc thì ở khổ này lại đượm buồn và có chút xót xa. Xuất hiện hình ảnh ẩn dụ “thuyền", “bến" cùng với hình ảnh “sông Trăng". Sông Hương bây giờ đã nhuốm đầy ánh trăng, làm cho cả một vùng sông tràn ngập ánh vàng. Câu hỏi cuối khổ thơ như thể chính tác giả đang hỏi bản thân. Câu thơ đã bộc lộ nỗi niềm lo lắng khi trong hoàn cảnh này tác giả đang mang trong mình căn bệnh quái ác. Và liệu nhà thơ có đủ thời gian để chờ vầng trăng ấy về kịp. Câu hỏi khiến cho cả khổ thơ chùng xuống hẳn! Thi sĩ buồn cho cái số phận ngắn ngủi, cho ước mơ vẫn còn dở dang.

Đành là vậy! Như khi đến khổ thơ thứ ba tác giả tiếp tục sống cho mộng ước của mình

“Mơ khách đường xa, khách đường xa

Áo em trắng quá nhìn không ra

Ở đây sương khói mờ nhân ảnh

Ai biết tình ai có đậm đà”

Lần này tác giả sống trong mộng tưởng của mình. Hình ảnh khách đường xa nhấn mạnh hai lần đã nói lên phần nào nỗi trông ngóng, nhớ thương của tác giả dành cho người thương. Theo một số tư liệu thì lúc làm nhân viên ở Quy Nhơn, Hàn Mạc Tử có thầm thương trộm nhớ cô gái Huế tên là Hoàng Thị Kim Cúc, con ông chủ sở. Một thời gian sau, nhà thơ vào Sài Gòn làm báo, khi trở lại Quy Nhơn thì gia đình cô Cúc đã về lại Vĩ Dạ (Huế). Trong thời gian nhà thơ bạo bệnh, được sự gợi ý của người bạn, cô Cúc đã gửi cho nhà thơ bức ảnh chụp cảnh cô mặc áo dài trắng cùng với đó là hình ảnh sông, nước, bến, thuyền. Nhận được bức ảnh ấy, nhà thơ đã rất vui. Cũng chính vì thế mà hình ảnh “áo em trắng quá" có thể bắt nguồn từ tà áo trắng mà cô Hoàng Thị Kim Cúc đã chụp. Tuy nhiên, cái màu trắng ấy lại “nhìn không ra". Có một số giả thiết cho rằng lúc tác giả mắc bệnh thì con mắt đã kém đi nên nhìn mọi vật có thể không rõ. Vậy nên màu trắng này có phải là sự lạ lẫm hay cái nhìn đã phần giảm xuống?

“Ở đây sương khói mờ nhân ảnh

Ai biết tình ai có đậm đà”

Câu thơ thứ ba của khổ cuối đã miêu tả đúng cái không gian của xứ Huế. Với vùng quê được bao quanh bởi sương và khói, màu trắng ấy đã làm mờ đi mọi thứ kể cả “nhân ảnh". Con người dường như cũng bị khuất lấp sau màn sương ấy. Cảm giác vừa thực vừa ảo, như thể tác giả đang lạc vào thế giới thần bí mà ở đó mọi vật đều khó hiện rõ nét sau “tấm rèm trắng". Và có lẽ ý tứ, tình cảm của tác giả lại được gói ghém ở câu thơ cuối cùng. Tiếp tục là một câu hỏi tu từ “Ai biết tình ai có đậm đà?”. Nhà thơ hỏi người mà cũng giống như hỏi mình liệu tình cảm ấy còn “đậm đà", son sắt như ngày xưa. Liệu cố nhân có còn giữ tình cảm xưa cũ. Đọc câu thơ này, độc giả sẽ không biết nhân vật hỏi và được hỏi sẽ là ai. Thế nhưng cái người ta để tâm là tình cảm ấy có trường tồn, và lòng người có còn giữ chút niềm riêng. Tất cả đều là một ẩn số!

Bằng cách sử dụng các biện pháp nghệ thuật một cách xuất sắc và linh hoạt như biện pháp điệp từ, điệp cấu trúc, câu hỏi tu từ… người đọc đã có dịp chứng kiến cây bút tài hoa vẽ nên những đường nét mềm mại của bức tranh chốn Thừa Thiên một cách sinh động và có hồn nhất.

Với bài thơ “Đây thôn Vĩ Dạ" Hàn Mạc Tử đã đưa độc giả đến với không gian xứ Huế mộng mơ mà cụ thể là cảnh thôn Vĩ Dạ. Với một khung cảnh trữ tình, nên thơ cùng với tình yêu tha thiết, nhớ mong tác giả đã giãi bày tình cảm của mình với người con gái Huế mà tác giả thầm đơn phương. Tình cảm ấy son sắt, thủy chung nhưng lại bồn chồn, lo lắng về “người cũ” có còn giữ nỗi niềm xưa. Tình cảm ấy còn đọng mãi và trở thành một câu hỏi không nguôi trong lòng tác giả và cho cả người đọc.


Hãy giúp mọi người biết câu trả lời này thế nào?
0/5 (0 đánh giá)
thumb up 0
thumb down
0 bình luận
Bình luận

Nhật Nguyễn

#### 1. **Nội Dung**

Bài thơ "Đây Thôn Vĩ Dạ" thể hiện nỗi nhớ quê hương da diết, tình yêu thiên nhiên và tâm trạng của người thi sĩ trước hiện thực cuộc sống. Thôn Vĩ Dạ, một nơi gắn liền với kỷ niệm và tuổi trẻ của tác giả, trở thành biểu tượng cho vẻ đẹp và hoài niệm.


Hàn Mặc Tử miêu tả vẻ đẹp của thế giới thiên nhiên qua các hình ảnh cụ thể, như cành hoa, ánh trăng, dòng sông... Những hình ảnh này không chỉ phản ánh vẻ đẹp của cảnh vật mà còn diễn tả cảm xúc sâu sắc của tác giả về sự cô đơn, lạc lõng khi phải xa quê hương. Thông qua đó, ta cảm nhận được niềm khát khao về một tình yêu vĩnh cửu và sự hoài niệm về quá khứ.


#### 2. **Nghệ Thuật**

Bài thơ được viết theo thể thơ tự do với nhiều biện pháp tu từ tinh tế. Hàn Mặc Tử sử dụng:


- **Hình ảnh thơ**: Hình ảnh thiên nhiên như cây cối, hoa lá, dòng sông sắc nét và phong phú, tạo ra một bức tranh sinh động về Thôn Vĩ Dạ.

- **Biện pháp so sánh**: Những so sánh và ẩn dụ trong bài thơ làm nổi bật vẻ đẹp và sự lãng mạn của quê hương.

- **Thanh điệu và nhịp điệu**: Âm điệu bài thơ nhẹ nhàng, êm dịu, tạo ra cảm giác thư thái, phiêu du, phù hợp với chủ đề thiên nhiên và tình yêu.


#### 3. **Đánh Giá Chung**

"Đây Thôn Vĩ Dạ" không chỉ là một bài thơ tình yêu quê hương, mà còn là một tác phẩm sâu sắc về tâm hồn người thi sĩ. Hàn Mặc Tử đã khéo léo kết hợp giữa bức tranh thiên nhiên tươi đẹp và tâm trạng con người, tạo nên một tác phẩm nghệ thuật tinh tế. Bài thơ không chỉ khắc sâu giá trị của tình yêu quê hương mà còn gợi mở những suy tư về đời sống, về sự tồn tại của con người trước dòng chảy của thời gian và xã hội. Nó xứng đáng là một trong những tác phẩm tiêu biểu của thơ ca Việt Nam hiện đại.

Hãy giúp mọi người biết câu trả lời này thế nào?
0/5 (0 đánh giá)
thumb up 0
thumb down
0 bình luận
Bình luận

Nếu bạn muốn hỏi bài tập

Các câu hỏi của bạn luôn được giải đáp dưới 10 phút

Ảnh ads

CÂU HỎI LIÊN QUAN

FQA.vn Nền tảng kết nối cộng đồng hỗ trợ giải bài tập học sinh trong khối K12. Sản phẩm được phát triển bởi CÔNG TY TNHH CÔNG NGHỆ GIA ĐÌNH (FTECH CO., LTD)
Điện thoại: 1900636019 Email: info@fqa.vn
location.svg Địa chỉ: Số 21 Ngõ Giếng, Phố Đông Các, Phường Đống Đa, Thành phố Hà Nội, Việt Nam.
Tải ứng dụng FQA
Người chịu trách nhiệm quản lý nội dung: Đào Trường Giang Giấy phép thiết lập MXH số 07/GP-BTTTT do Bộ Thông tin và Truyền thông cấp ngày 05/01/2024
Copyright © 2023 fqa.vn All Rights Reserved