Nguyễn Khuyến là một nhà thơ lớn của dân tộc. Ông có nhiều bài thơ hay viết về tình bạn, tình yêu quê hương đất nước, đặc biệt là chùm ba bài thơ thu đã tô đậm thêm vẻ đẹp tâm hồn của con người Nguyễn Khuyến. Chùm thơ Thu được viết bằng chữ Nôm, theo thể thất ngôn bát cú Đường luật với bố cục bốn phần: đề, thực, luận, kết. Bài thơ "Thu vịnh" mang cái hồn, cái thần của cảnh vật mùa thu hơn cả. Ở đây, mùa thu hiện ra với không gian thoáng đãng, mênh mông, những nét chấm phá đầy tài hoa của tác giả.
Bài thơ mở đầu với hai câu thơ vừa có hình ảnh, vừa có nhạc:
Trời thu xanh ngắt mấy từng cao,
Cần trúc lơ phơ gió hắt hiu.
Màu "xanh ngắt" là màu xanh thanh quý, trong trẻo. Trên nền trời thu "xanh ngắt" bao la, xuất hiện một vài bông hoa cúc trắng nhỏ nhoi, e lẻ. Hoa cúc cũng là một loài hoa gợi nhắc đến mùa thu. Chỉ bằng một vài nét chấm phá đơn sơ ấy thôi nhưng nhà thơ đã vẽ lên trước mắt người đọc khung cảnh bầu trời mùa thu vô cùng sống động, có chiều cao, chiều sâu và cả độ rộng. Từ "lơ phơ" gợi tả sắc trắng vừa phải, điểm xuyết cho bầu trời thu. Từ láy "hắt hiu" làm giảm nhịp điệu câu thơ, khiến câu thơ như hơi se lạnh. Như vậy chỉ với hai câu dề, tác giả đã gọi tên mùa thu với tất cả sự nhẹ nhàng, mềm mại.
Sang đến hai câu thực tiếp theo, bức tranh mùa thu càng trở nên rõ nét hơn:
Nước biếc trông như tầng khói phủ
Song thưa để mặc bóng trăng vào.
Hình ảnh mùa thu lại được miêu tả thông qua gam màu xanh "biếc". Màu xanh biếc là màu xanh trong, mát và sáng. Mùa thu có sắc xanh của da trời, của mặt nước. Mặt nước mùa thu dường như xao động khi gió thổi nhẹ, sương phủ mờ ảo. Hình ảnh so sánh "tầng khói phủ" khiến ta liên tưởng tới sự mơ hồ, hư hư thực thực của không gian. Ánh sáng của vầng trăng mùa thu dịu dàng, len lỏi qua song cửa tạo cảm giác thanh bình. Hai câu thơ sử dụng nghệ thuật đảo ngữ, đưa các từ ngữ "biếc", "mặc" lên đầu câu nhằm nhấn mạnh đặc trưng của mùa thu. Bức tranh thiên nhiên mùa thu thật đẹp đẽ, êm đềm mà tĩnh lặng.
Đến hai câu thơ luận, bức tranh mùa thu có sự chuyển đổi:
Mấy chùm trước giậu hoa năm ngoái,
Một tiếng trên không ngỗng nước nào?
Câu thơ thứ bảy, tác giả dùng phép đối giữa "trước giậu" và "trên không" để diễn tả không gian đa dạng, nhiều hướng. Câu hỏi tu từ "ngỗng nước nào?" vang lên như một lời bộc lộ cảm xúc bất ngờ, ngỡ ngàng và một chút bối rối của thi nhân. Nhà thơ giật mình nhận ra thời gian trôi qua quá nhanh, tuổi già ập đến mà công danh, sự nghiệp còn dang dở. Trong lòng ông dâng lên nỗi buồn man mác, u sầu.
Hai câu thơ cuối khép lại bài thơ, đồng thời mở ra một suy nghĩ mới trong lòng người đọc:
Nhân hứng cũng vừa toan cất bút
Nghĩ ra lại thẹn với ông Đào.
Tâm trạng của nhà thơ được bộc lộ trực tiếp. Ông đang có cảm hứng dạt dào, muốn cầm bút ngay để sáng tác thơ ca. Nhưng ông lại thấy thẹn thùng, xấu hổ với Đào Tiềm - một ẩn sĩ nổi tiếng Trung Quốc. Thái độ này của Nguyễn Khuyến rất đáng trân trọng bởi nó thể hiện thái độ chân thành, thẳng thắn của nhà thơ.
Như vậy, bài thơ "Thu vịnh" đã khắc họa thành công bức tranh phong cảnh mùa thu ở nông thôn đồng bằng Bắc Bộ. Đồng thời, thể hiện tâm trạng thời thế của tác giả. Ngôn ngữ thơ tinh tế, giàu sức gợi, bút pháp thủy mặc phương Đông cùng với giọng điệu trầm lắng đã góp phần tạo nên thành công của tác phẩm.