Nguyễn Đình Chiểu là một nhà thơ yêu nước của dân tộc ta, ông đã để lại cho đời nhiều tác phẩm hay, có giá trị sâu sắc. Trong đó nổi bật nhất chính là tác phẩm "Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc". Tác phẩm này được viết theo thể văn biền ngẫu, gồm 41 câu, nó vừa mang giá trị hiện thực sâu sắc, vừa mang giá trị nhân đạo cao cả.
Tác phẩm Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc ra đời trong hoàn cảnh đất nước bị giặc Pháp xâm lược, chúng gây ra bao nhiêu tội ác dã man khiến lòng người uất hận căm thù sục sôi muốn đứng lên đấu tranh chống lại kẻ thù. Bài văn tế như tiếng khóc đau thương trước sự hy sinh anh dũng của những chiến sĩ nông dân Cần Giuộc, họ đã anh dũng đứng lên chống lại kẻ thù vì độc lập, tự do của Tổ quốc. Họ không phải là những tướng lĩnh tài ba, cũng không phải là những binh lính chuyên nghiệp mà chỉ là những người nông dân chất phác, quanh năm làm bạn với ruộng đồng nhưng khi tổ quốc lâm nguy thì họ sẵn sàng xả thân vì nghĩa lớn. Những con người bình dị ấy đã bất chấp hiểm nguy, xông vào lũ giặc hung tàn mà không hề sợ hãi. Họ hiểu rằng, cuộc khởi nghĩa của mình là hết sức khó khăn, gian khổ nhưng tất cả đều không quản ngại hi sinh, quyết tâm đánh đuổi giặc ngoại xâm ra khỏi bờ cõi.
Mở đầu bài văn tế, Nguyễn Đình Chiểu đã nêu lên luận đề chung về vấn đề sống chết cùng lý tưởng trung quân ái quốc:
Hỡi ôi! Súng giặc đất rền; lòng dân trời tỏ
Khi Tổ quốc lâm nguy, những người nông dân áo vải, chân lấm tay bùn đã dám đứng lên đấu tranh chống lại kẻ thù. Chính lòng yêu nước, tinh thần dân tộc đã giúp các nghĩa sĩ vượt qua mọi khó khăn, giành chiến thắng ban đầu. Tuy nhiên sau đó, do lực lượng chênh lệch, các nghĩa sĩ đã hy sinh anh dũng. Sự hy sinh của các nghĩa sĩ Cần Giuộc là vô cùng to lớn, thể hiện tấm lòng kiên trung với nước, với vua.
"Một giấc sa trường rằng chữ hạnh,
Nào đợi gươm hùm treo động mạc tà."
Trong trận chiến đấu ác liệt ở Cần Giuộc, rất nhiều nghĩa sĩ đã hy sinh. Các anh ngã xuống ngay trên mảnh đất quê hương mình, nơi có vợ con, cha mẹ đang ngóng chờ các anh trở về. Nhưng vì nghĩa lớn, các anh đã gác tình nhà, quyết tâm tiêu diệt giặc. Hình ảnh các nghĩa sĩ hiện lên thật hào hùng, lẫm liệt:
"Chi nhọc quan quản gióng trống kì, trống giục, đạp rào lướt tới, coi giặc cũng như không; nào sợ thằng Tây bắn đạn nhỏ, đạn to, xô cửa xông vào, liều mình như chẳng có."
Các nghĩa sĩ xuất thân từ nông dân nên thiếu thốn đủ thứ, từ vũ khí cho đến trang phục. Khi ra trận, họ chỉ có những vũ khí thô sơ như: "manh áo vải", "ngọn tầm vông", "lưỡi dao phay"... nhưng không hề sợ hãi trước kẻ thù mạnh hơn mình gấp bội phần. Bằng ý chí, nghị lực phi thường, các nghĩa sĩ đã dũng cảm chiến đấu với kẻ thù bằng tất cả lòng căm thù giặc.
"Những lăm lòng nghĩa lâu dùng; đâu biết xác phàm vội bỏ."
Sự hy sinh của các nghĩa sĩ là vô cùng oanh liệt, thể hiện tinh thần xả thân cứu nước, là tấm gương sáng cho thế hệ mai sau noi theo.
Bên cạnh việc ca ngợi tinh thần chiến đấu quả cảm của các nghĩa sĩ, Nguyễn Đình Chiểu còn bày tỏ nỗi xót xa, tiếc nuối trước sự ra đi của họ. Ông thấu hiểu những vất vả, khó khăn mà các nghĩa sĩ đã trải qua. Đó là những đêm thao thức không ngủ được vì lo nghĩ chuyện đánh giặc, là những ngày tháng vất vả, đói khát, bệnh tật... Tất cả những điều đó càng tô đậm thêm vẻ đẹp bi tráng của hình tượng người nghĩa sĩ nông dân.
"Đoái sông Cần Giuộc cỏ cây mấy dặm sầu giăng; nhìn chợ Trường Bình già trẻ hai hàng lụy nhỏ."
Cỏ cây, hoa lá, con người đều rơi vào cảnh tang tóc, chia ly. Cảnh vật nhuốm màu tang thương, ai oán. Nhà thơ đã sử dụng thủ pháp đối lập tương phản giữa số ít (mấy) với số nhiều (cỏ cây), giữa sự sống (sầu giăng) với cái chết (hai hàng lụy nhỏ). Qua đó, ông đã khắc họa thành công sự thất bại của nghĩa quân, đồng thời khẳng định sự bất tử của người nghĩa sĩ nông dân.
Bài văn tế kết thúc bằng lời than của tác giả trước sự hy sinh của các nghĩa sĩ. Lời than ấy vang vọng mãi trong lòng người đọc, nhắc nhở chúng ta hãy luôn ghi nhớ công ơn của những người đã khuất.
Với nghệ thuật xây dựng hình tượng đặc sắc, ngôn ngữ giàu tính tạo hình, giọng điệu linh hoạt, nhịp điệu biến đổi phù hợp với nội dung biểu đạt, bài văn tế đã tái hiện thành công hình tượng người nghĩa sĩ nông dân Cần Giuộc. Đồng thời, nó cũng thể hiện tấm lòng yêu mến, trân trọng, cảm phục của tác giả dành cho những người anh hùng áo vải.