Báo cáo nghiên cứu hình tượng trăng trong thơ Nôm của Nguyễn Trãi

thumb up 0
thumb down
Trả lời câu hỏi của duonganh08
  • Câu trả lời phải chính xác, đầy đủ dựa trên kiến thức xác thực:
    • ✔ Đối với câu hỏi trắc nghiệm: Đưa đáp án lựa chọn + giải thích lý do chọn đáp án.
    • ✔ Đối với câu hỏi tự luận: Đưa lời giải và đáp án cho câu hỏi.
    • ✔ Đối với câu hỏi trả lời ngắn: Đưa ra đáp án + giải thích lý do.
    • ✔ Chấp nhận sử dụng ảnh do thành viên viết tay, ảnh cần rõ nét, không bị mờ, vỡ ảnh.
  • Sử dụng ngôn ngữ rõ ràng, dễ hiểu.
  • Tránh đưa ra các ý kiến cá nhân mang tính chất chủ quan.
  • Nếu sử dụng thông tin từ nguồn khác, phải trích dẫn nguồn đầy đủ và chính xác.
  • Tuyệt đối không được sao chép các thông tin từ các trang khác, từ AI hoặc chatGPT.
CÂU TRẢ LỜI
avatar
Timi

15/11/2024

Trợ lý học tập AI - Câu trả lời này chỉ mang tính tham khảo
Trăng là một đề tài quen thuộc trong thi ca, nó đã trở thành nguồn cảm hứng bất tận cho các nhà văn, nhà thơ. Trong kho tàng văn học Việt Nam có rất nhiều bài thơ hay viết về trăng như "Cảnh khuya" của Hồ Chí Minh, "Nguyên tiêu" của Hồ Chí Minh,... và không thể không nhắc đến "Bạch Đằng hải khẩu" của Nguyễn Trãi. Bài thơ được sáng tác khi ông bị chèn ép quyền lực, phải lui về ở ẩn tại Côn Sơn. Qua đó ta thấy được vẻ đẹp thiên nhiên hùng vĩ, tráng lệ nhưng cũng đượm buồn của sông Bạch Đằng cùng với tâm trạng hoài niệm, tự hào của tác giả về những chiến công lịch sử trên dòng sông này.

Nguyễn Trãi (1380-1442) hiệu là Ức Trai, quê gốc ở làng Chi Ngại, huyện Phượng Sơn, lộ Lạng Giang (nay thuộc Chí Linh - Hải Dương), sau dời về Nhị Khê (Thường Tín - Hà Tây). Ông sinh ra trong một gia đình mà bên ngoại có hai truyền thống lớn: yêu nước và văn hóa, văn học; bên nội cũng có nghề thầy khoa, dạy học. Cha ông đỗ Thái học sinh đời Trần, làm quan dưới triều nhà Hồ, sau đó theo khởi nghĩa Lam Sơn, dâng Bình Ngô sách, được Lê Lợi tin dùng, phong tới chức Hàn lâm viện thừa chỉ học sĩ, tri Tam quán sự. Mẹ ông là con gái thứ ba của quan tư đồ Trần Nguyên Đán, một quý tộc thời Trần. Gia đình Nguyễn Trãi giàu truyền thống yêu nước, văn hóa, văn học. Bản thân Nguyễn Trãi từ nhỏ đã thông minh hơn người, 6 tuổi bắt đầu tập đọc sách, 13 tuổi đã nổi tiếng về văn chương, 20 tuổi đỗ Thái học sinh đời Hồ, làm quan dưới triều nhà Hồ, sau đó theo khởi nghĩa Lam Sơn, dâng Bình Ngô sách, được Lê Lợi tin dùng, phong tới chức Hàn lâm viện thừa chỉ học sĩ, tri Tam quán sự. Năm 1442, toàn thể gia đình Nguyễn Trãi bị kết án tru di tam tộc trong vụ án Lệ Chi Viên. Đến năm 1464, vua Lê Thánh Tông xuống giải oan, truy tặng tước vị cho ông.

Nguyễn Trãi để lại cho hậu thế một khối lượng lớn các tác phẩm văn học, bao gồm cả chữ Hán và chữ Nôm. Về chữ Hán, ông có "Quân trung từ mệnh tập", "Bình Ngô đại cáo", "Lam Sơn thực lục", "Dư địa chí", "Ức Trai thi tập"... Về chữ Nôm, ông có "Quốc âm thi tập". Các tác phẩm của ông đều mang đậm tính dân tộc, thể hiện lòng yêu nước, thương dân sâu sắc. Đặc biệt, "Bình Ngô đại cáo" được coi là bản tuyên ngôn độc lập lần thứ hai của dân tộc, khẳng định chủ quyền lãnh thổ của đất nước và nêu cao tinh thần nhân nghĩa, yêu nước, thương dân.

Bài thơ "Bạch Đằng hải khẩu" được sáng tác khi Nguyễn Trãi bị chèn ép quyền lực, phải lui về ở ẩn tại Côn Sơn. Bài thơ mở đầu bằng cảnh thiên nhiên hùng vĩ, tráng lệ nhưng cũng đượm buồn của sông Bạch Đằng:

"Giương buồm giong gió chơi vơi,
Lướt bể chơi trăng mải miết."

Hai câu thơ vẽ nên khung cảnh thiên nhiên rộng lớn, bao la. Gió thổi mạnh, buồm căng phồng, thuyền lướt nhanh trên biển. Trăng tròn vành vạnh, soi sáng khắp mặt biển. Cảnh vật vừa hùng vĩ, tráng lệ, vừa thơ mộng, trữ tình. Tuy nhiên, đằng sau bức tranh thiên nhiên ấy là nỗi buồn man mác của tác giả. Ông nhớ về quá khứ huy hoàng của dân tộc, nhớ về những chiến công hiển hách trên dòng sông Bạch Đằng. Nỗi buồn ấy càng thêm da diết khi ông nhận ra rằng, giờ đây, mình chỉ là một kẻ lưu lạc, không còn được góp sức vào công cuộc xây dựng đất nước.

Tiếp theo, tác giả hồi tưởng về những chiến công lịch sử trên dòng sông Bạch Đằng:

"Sóng kình muôn dặm, đuôi trăn dài,
Hùm thiêng khi đã sa cơ còn hăng."

Hình ảnh sóng kình, đuôi trăn gợi lên sức mạnh vô song của quân đội ta trong những trận đánh trên sông Bạch Đằng. Hùm thiêng khi đã sa cơ vẫn còn hung dữ, quyết chiến đấu đến cùng. Những hình ảnh này thể hiện khí phách anh hùng, ý chí kiên cường của quân đội ta. Đồng thời, chúng cũng gợi lên niềm tự hào, kiêu hãnh của tác giả về những chiến công hiển hách của dân tộc.

Sau đó, tác giả bày tỏ nỗi lòng của mình trước cảnh vật:

"Đêm nay khó ngủ vì lo việc nước,
Mà sao nghe tiếng trống cầm canh?"

Nỗi lo lắng, băn khoăn của tác giả về vận mệnh đất nước khiến ông không thể ngủ yên. Tiếng trống cầm canh vang vọng giữa đêm khuya càng khiến nỗi lo ấy thêm nặng nề. Câu hỏi tu từ "mà sao nghe tiếng trống cầm canh?" thể hiện sự trăn trở, day dứt của tác giả. Ông muốn biết rõ hơn về tình hình đất nước, muốn góp sức mình vào công cuộc xây dựng đất nước.

Như vậy, qua bài thơ "Bạch Đằng hải khẩu", ta thấy được vẻ đẹp thiên nhiên hùng vĩ, tráng lệ nhưng cũng đượm buồn của sông Bạch Đằng. Ta cũng thấy được tâm trạng hoài niệm, tự hào của tác giả về những chiến công lịch sử trên dòng sông này.
Hãy giúp mọi người biết câu trả lời này thế nào?
0/5 (0 đánh giá)
thumb up 0
thumb down
0 bình luận
Bình luận

Nếu bạn muốn hỏi bài tập

Các câu hỏi của bạn luôn được giải đáp dưới 10 phút

Ảnh ads

CÂU HỎI LIÊN QUAN

FQA.vn Nền tảng kết nối cộng đồng hỗ trợ giải bài tập học sinh trong khối K12. Sản phẩm được phát triển bởi CÔNG TY TNHH CÔNG NGHỆ GIA ĐÌNH (FTECH CO., LTD)
Điện thoại: 1900636019 Email: info@fqa.vn
location.svg Địa chỉ: Số 21 Ngõ Giếng, Phố Đông Các, Phường Đống Đa, Thành phố Hà Nội, Việt Nam.
Tải ứng dụng FQA
Người chịu trách nhiệm quản lý nội dung: Đào Trường Giang Giấy phép thiết lập MXH số 07/GP-BTTTT do Bộ Thông tin và Truyền thông cấp ngày 05/01/2024
Copyright © 2023 fqa.vn All Rights Reserved