Nguyễn Khuyến là một nhà thơ lớn của dân tộc, ông đã để lại cho đời nhiều tác phẩm có giá trị. Thơ Nguyễn Khuyến luôn đề cao tình yêu quê hương đất nước, tình cảm với bạn bè, người thân và cả sự phê phán đối với những thói hư tật xấu trong xã hội. Bài thơ "Ông Phỗng" là một ví dụ điển hình cho phong cách sáng tác của ông.
Bài thơ được viết theo thể thơ thất ngôn bát cú đường luật, gồm bốn phần: đề, thực, luận, kết. Hai câu đầu giới thiệu về nhân vật chính - ông Phỗng:
"Ông Phỗng đứng cheo leo
Mặt nhìn lên trời".
Hình ảnh ông Phỗng hiện lên thật oai nghiêm, vững chãi như đang đứng trên đỉnh núi cao. Ông Phỗng là biểu tượng cho quyền uy, sức mạnh của triều đình phong kiến. Tuy nhiên, ở đây ta thấy ông Phỗng chỉ đứng "cheo leo", không có điểm tựa chắc chắn. Điều này gợi lên sự bất ổn, không vững vàng của chế độ phong kiến lúc bấy giờ.
Hai câu tiếp theo miêu tả hành động của ông Phỗng:
"Một tay cầm gậy trúc
Một tay chống nạnh".
Cách miêu tả này khiến ông Phỗng trở nên sinh động, có hồn hơn. Hình ảnh ông Phỗng cầm gậy trúc, chống nạnh tạo nên vẻ uy nghi, lẫm liệt nhưng cũng ẩn chứa sự cô đơn, trống trải. Ông Phỗng như đang đứng giữa trời đất bao la, không có ai bầu bạn, chia sẻ.
Bốn câu thơ tiếp theo nói về cảnh vật xung quanh ông Phỗng:
"Nước non mây gió
Trời xanh thăm thẳm
Cỏ cây hoa lá
Rừng sâu biển rộng".
Cảnh vật thiên nhiên được miêu tả thật hùng vĩ, tráng lệ. Nước non mây gió, trời xanh thăm thẳm, cỏ cây hoa lá, rừng sâu biển rộng... Tất cả đều mang vẻ đẹp hoang sơ, kỳ vĩ. Nhưng đằng sau bức tranh thiên nhiên ấy là nỗi buồn man mác, cô đơn của ông Phỗng. Ông Phỗng đứng giữa thiên nhiên bao la, nhưng lại chẳng có ai để tâm sự, chia sẻ.
Hai câu thơ cuối cùng khép lại bài thơ bằng lời khẳng định về số phận của ông Phỗng:
"Sống thác vô thường
Chết rồi cũng vậy".
Lời khẳng định này cho thấy số phận của ông Phỗng cũng giống như số phận của biết bao con người khác trong xã hội phong kiến. Họ sống trong cảnh bần hàn, cơ cực, chết đi cũng chẳng ai thương tiếc.
Như vậy, qua bài thơ "Ông Phỗng", Nguyễn Khuyến đã khéo léo sử dụng các biện pháp nghệ thuật như so sánh, nhân hóa, ẩn dụ,... để khắc họa thành công hình ảnh ông Phỗng - biểu tượng cho quyền uy, sức mạnh của triều đình phong kiến. Đồng thời, qua đó, ông cũng bộc lộ thái độ châm biếm, mỉa mai đối với chế độ phong kiến thối nát, mục ruỗng.