Trăng là một hình ảnh quen thuộc trong các bài thơ ca. Nó không chỉ gợi ra được vẻ đẹp của thiên nhiên mà còn nói lên được tâm trạng cũng như nỗi niềm của con người. Và ánh trăng trong bài thơ cùng tên của nhà thơ Xuân Diệu cũng vậy. Nó vừa mang vẻ đẹp của thiên nhiên nhưng đồng thời cũng nói lên nỗi lòng của con người trước cảnh thiên nhiên ấy.
Bài thơ mở đầu bằng những lời tự sự đầy nhẹ nhàng sâu lắng:
“Trăng thương nhớ làm sao thương nhớ đến cả sông dài
Trăng thương nhớ làm sao thương nhớ đến cả rừng núi
Trăng thương nhớ làm sao thương nhớ đến cả lòng tôi”.
Ngay từ những vần thơ đầu tiên ta đã bắt gặp một “trăng thương”, một “trăng nhớ” rất nhân hậu, rất tình cảm. Ánh trăng mang vẻ đẹp vầng trăng tròn trịa, viên mãn tượng trưng cho hạnh phúc, cho niềm vui. Thế nhưng cái hay ở đây là tác giả đã nhân hóa ánh trăng khiến nó trở nên có hồn hơn bao giờ hết. Nó biết thương, biết nhớ – điều mà con người thường thể hiện với nhau. Từ “thương nhớ” được lặp lại ba lần như nhân lên từng tầng, từng lớp nỗi niềm canh cánh trong lòng thi sĩ. Nỗi nhớ trải dài theo không gian “sông dài”, “rừng núi” rồi cuối cùng đọng lại ở “lòng tôi”.
Câu thơ cuối được ngắt nhịp 2/2/3 như tiếng thở dài nặng trĩu tâm tư, sầu muộn. Đọc câu thơ ta chợt nhớ tới câu thơ của Xuân Quỳnh:
“Những ngày không gặp nhau
Biển bạc đầu thương nhớ
Những ngày không gặp nhau
Lòng thuyền đau rạn vỡ.”
Nếu như Xuân Quỳnh đưa vào thơ mình động từ “bạc đầu” để diễn tả nỗi nhớ thì Xuân Diệu lại dùng tính từ “vắng xuôn” để bộc lộ nỗi niềm tương tư. Đó đều là những cách sử dụng ngôn ngữ tài hoa, độc đáo của những người nghệ sĩ đa cảm.
Nỗi nhớ nhung đó cứ thế dâng trào mãnh liệt:
“Có cái gì rạo rực ngây ngất
Trong một chiều tiết tháng tám
Nhớ ơ hờ, một buổi trưa hè
Tiếng huyền chảy dưới khe
Đàn bọ ngựa ru nhau trên lá
Xao xác gà trưa gáy não nùng.”
Từ láy “rạo rực”, “ngây ngất” diễn tả nỗi nhớ trào dâng trong lòng thi nhân. Ông nhớ “một chiều tiết tháng tám”, ông nhớ “một buổi trưa hè”, ông nhớ cả tiếng đàn bọ ngựa ru nhau trên lá, nhớ cả tiếng gà xao xác trưa hè… Tất cả những âm thanh bình dị, quen thuộc của làng quê ấy đều khiến ông nhớ nhung da diết. Có lẽ khi con người ta cô đơn, con người ta mới cảm nhận được rõ ràng nhất những thứ âm thanh tưởng chừng như nhàm chán, vô nghĩa ấy lại có sức lay động kinh khủng đến vậy.
Đặc biệt, khổ thơ cuối cùng đã khép lại bài thơ nhưng cũng lại mở ra một nỗi nhớ khác, một nỗi nhớ khôn nguôi:
“Trăng ơi trăng có nơi nào?
Sáng hơn bóng một người thiết tha.”
Hai câu thơ kết thúc bài thơ thật bất ngờ và thú vị. Nhà thơ hỏi trăng hay đang hỏi chính bản thân mình. Ông muốn tìm kiếm một nơi nào đó thật sáng để vơi đi nỗi buồn, nỗi cô đơn. Nhưng đáp lại chỉ là câu trả lời của chính lòng ông: “sáng hơn bóng một người thiết tha”. Câu thơ vừa khẳng định lại vừa bổ sung ý thơ. Khẳng định lại tình cảm của thi nhân dành cho ánh trăng – sáng hơn bất kỳ một ánh sáng nào ông từng thấy đều do tác động của nỗi nhớ dành cho “một người”. Một chữ “thiết tha” đã nói lên tất cả nỗi niềm của thi nhân.
Với bút pháp miêu tả tinh tế, ngôn ngữ giản dị, giàu sức gợi, giọng điệu nhẹ nhàng, sâu lắng, Xuân Diệu đã khắc họa thành công nỗi nhớ nhung, mong chờ, khát khao được yêu thương của chàng trai trẻ tuổi. Bài thơ cũng là tiếng lòng của biết bao nhiêu người con trai đang yêu, sẵn sàng hi sinh vì tình yêu chân thành, thắm thiết.