phần:
: Giúp mình với .ôi túc gia gửi gmm qua văn bản là gì? Vì sao? Đề 3
Đọc hiểu (4,0 điểm) đọc văn bản sau: (1) [..] các nghiên cứu xã hội học đã chỉ ra rằng, "tật muộn giờ" của người Việt Nam là do nền sản xuất nông nghiệp hàng nghìn năm tạo ra, khi người ta không cần phải chính xác từng phút như sản xuất công nghiệp. Nhưng " di chứng" này liệu vẫn còn rơi rớt đến tận ngày nay, ở những con người sinh ra và trưởng thành tại thành thị, hầu như không, hoặc rất ít chịu ảnh hưởng bởi văn hóa nông nghiệp? (2) tôi cho rằng, ngoài yếu tố mang tính lịch sử, văn hóa này, " bệnh muộn giờ" ngày nay có nguyên nhân từ tâm lý địa vị xã hội thấp kém luôn đeo bám người Việt. Khi bạn ở địa vị càng thấp, bạn sẽ càng cảm thấy mình nhỏ bé và vô nghĩa. Bạn sẽ càng muốn né tránh ánh mắt của người khác. Bạn sẽ càng không muốn thu hút sự chú ý của mọi người về phía mình. Do đó, nếu có cuộc hẹn vào lúc 9h sáng, bạn sẽ cố tình đến muộn 15 phút để cảm thấy mình quan trọng hơn. Nếu cuộc hẹn vào lúc 10h sáng, bạn sẽ cố tình đến muộn 30 phút... Và nếu cuộc hẹn vào lúc 8h sáng, bạn sẽ vui vẻ đến đúng giờ, thậm chí sớm hơn một chút để thể hiện đẳng cấp của mình. (Trích bài viết "Bệnh muôn giờ" của tác giả Linh Nga, đăng trên trang vnexpressnet, ngày 16/7/2015).
Xác định phương thức biểu đạt chính được sử dụng trong đoạn trích trên.
: Chỉ ra phép liên kết hình thức được sử dụng trong hai câu văn sau: "Khi bạn ở địa vị càng thấp, bạn sẽ càng cảm thấy mình nhỏ bé và vô nghĩa. Bạn sẽ càng muốn né tránh ánh mắt của người khác."
: Theo anh/chị, việc tác giả đưa ra dẫn chứng về "tật muộn giờ" của người Việt Nam nhằm mục đích gì?
: Anh/ chị có đồng tình với quan niệm: "Nếu có cuộc hẹn vào lúc 9h sáng, bạn sẽ cố tình đến muộn 15 phút để cảm thấy mình quan trọng hơn"? Vì sao? [/INST] : Phương thức biểu đạt chính: Nghị luận
: Phép liên kết hình thức: phép lặp - lặp lại từ "bạn".
: Việc tác giả đưa ra dẫn chứng về "tật muộn giờ" của người Việt Nam nhằm mục đích làm rõ vấn đề mà tác giả đang bàn luận tới.
: Em đồng tình với quan niệm: "Nếu có cuộc hẹn vào lúc 9h sáng, bạn sẽ cố tình đến muộn 15 phút để cảm thấy mình quan trọng hơn". Bởi lẽ, khi chúng ta đến muộn thì người chủ trì buổi gặp mặt ấy sẽ nghĩ rằng chúng ta không coi trọng họ nên mới đến muộn như vậy. Điều đó khiến cho chúng ta trở nên thiếu tôn trọng đối với người khác.
phần:
câu 1: Luận đề: Tật xấu hay gặp nhất hiện nay đó là thói quen trễ giờ.
câu 2: Trong đoạn (2), tác giả đã dùng lí lẽ để khẳng định: "tật muộn giờ là thói ích kỉ, vô kỷ luật và thiếu tự trọng": muộn giờ chính là chiếm dụng tài nguyên của người khác, bao gồm thời gian, công sức, sự hăng hái và cả những cơ hội.
câu 3: Bằng chứng: Hồi tổ chức Thế Vận Hội 2020, ông Yoshitaka Sakurada - Bộ trưởng An ninh Mạng và Đảm trách Olympic Tokyo, vì đi họp muộn ba phút đã bị chỉ trích dữ dội và phải công khai xin lỗi. Nhiều người có thể cảm thấy việc này là rất lạ vì muộn ba phút "thì có vấn đề gì?" Nhưng một báo cáo của Heathrow Express ở Anh năm 2017 cho thấy thói quen đi làm muộn gây thiệt hại 11,7 tỉ USD cho nước này. Ở Mỹ, việc người lao động đi muộn khiến Bang New York mất 700 triệu USD mỗi năm, còn con số đó ở Bang California là một tỉ USD.
câu 4: Thái độ của tác giả: phê phán, lên án gay gắt, quyết liệt đối với hiện tượng đi trễ, đặc biệt là các bạn trẻ.
câu 5: : Phương thức biểu đạt chính của đoạn trích là nghị luận.
: Theo tác giả, những nguyên nhân dẫn tới tình trạng trễ giờ, muộn giờ là do:
- Xuất phát từ tâm lí đám đông;
- Do tâm lí ngại va chạm, muốn dĩ hoà vi quý;
- Do thói ích kỉ, vô kỉ luật và thiếu tự trọng.
: Tác giả đưa ra các ví dụ về việc chậm trễ để chứng minh rằng:
+ Việc chậm trễ sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến cá nhân như mất công việc, mất tiền bạc,...
+ Việc chậm trễ còn ảnh hưởng đến xã hội khi nó trở thành một quốc nạn.
: Em đồng tình với quan niệm của tác giả: Đúng giờ, là tôn trọng, cũng là tự trọng. Vì:
+ Tôn trọng người khác bằng cách đến đúng giờ giúp họ chủ động sắp xếp công việc, tiết kiệm thời gian, tạo ấn tượng tốt đẹp.
+ Đến đúng giờ cũng là cách thể hiện sự tôn trọng đối với chính bản thân mình.
phần:
câu 1: Mùa xuân là mùa của khởi đầu, mùa của sự lạc quan, tươi trẻ. Chính vì vậy, mùa xuân trở thành nguồn cảm hứng bất tận cho biết bao nhà thơ nổi tiếng như Chế Lan Viên, Xuân Diệu,... Và không thể không nhắc đến Nguyễn Bính với thi phẩm "Xuân Về". Bài thơ nằm trong tập Lỡ Bước Sang Tai, được xuất bản vào năm 1940. Tác phẩm đã khắc họa khung cảnh thiên nhiên và con người khi xuân về vô cùng chân thực, sinh động.
Mở đầu bài thơ, tác giả đã vẽ nên khung cảnh làng quê khi xuân về:
"Đã thấy xuân về với gió đông,
Với trên màu má gái chưa chồng.
Bên hiên hàng xóm cô hàng xóm
Ngước mắt nhìn giời đôi mắt trong."
"Xuân về" đầu tiên mà Nguyễn Bính "thấy" chỉ đơn giản là qua cơn gió đông, qua khuôn mặt ửng hồng của cô gái trẻ. Cơn gió lành lạnh của mùa xuân, hơi ấm áp của mùa xuân qua lời thơ Nguyễn Bính thật khác lạ, mang đậm chất thôn quê. Xuân về, trên khuôn mặt của cô gái chứa chan là niềm vui của tuổi thanh xuân, của sự ngập tràn hy vọng về tương lai. Đôi mắt trong veo, nhìn trời đợi chờ điều gì đó. Có lẽ là người thương đi xa trở về?
Tiếp đến là khung cảnh đầy sức sống của thiên nhiên và con người:
"Từng đàn con trẻ chạy xun xoe
Mưa tạnh, giời quang, nắng mới hoe
Lá nõn, nhành non, ai tráng bạc?
Gió về từng trận, gió bay đi..."
Khung cảnh thiên nhiên tươi sáng, rực rỡ hơn nhờ có sự xuất hiện của "từng đàn con trẻ". Chúng chạy xun quanh sân với nụ cười giòn giã. Điều này càng làm cho không khí thêm phần vui tươi, nhộn nhịp. Giò nắng mới "mới hoe" gợi ra một màu vàng nhẹ nhàng, êm dịu. Màu lá "nhán non" được phản chiếu trở nên càng thêm lung linh, huyền ảo hơn. Hai câu thơ cuối là nét đặc trưng của mùa xuân khi có những cơn gió xuân "bay đi" mang theo cái se lạnh của mùa đông.
Rồi cảnh trẩy hội được khắc họa dưới ngòi bút tài hoa của Nguyễn Bính:
"Thong thả dân gian nghỉ việc đồng
Lúa thì con gái mượt như nhung
Đầy vườn hoa bưởi, hoa cam rụng
Ngào ngạt hương bay, bướm lượn vòng."
Khi xuân về cũng là lúc người nông dân kết thúc công việc đồng áng để đón một năm mới tốt lành. Cánh đồng lúa trải dài bát ngát, xanh mướt khiến cho ta sửa sảng ngắm nhìn không hề chán. Những chùm hoa bưởi, hoa cam nở bung trên cây tô điểm thêm cho bức tranh xuân thêm tươi đẹp, rực rỡ. Bướm ong chăm chỉ hút mật, lượn vòng quanh những đóa hoa đầy mê hoặc. Bức tranh làng quê mộc mạc, giản dị nhưng lại tràn đầy sức sống.
Cuối cùng là cảnh đoàn tụ, sum vầy của gia đình:
"Trên đường cát mịn, một đôi cô,
Yếm đỏ, khăn thâm, trẩy hội chùa.
Gậy trúc dắt bà già tóc bạc,
Tay lần tràng hạt miệng nam mô."
Hình ảnh các cô gái mặc yếm đỏ, khăn thâm trẩy hội chùa vào ngày xuân gợi nên vẻ đẹp rất riêng của người phụ nữ Việt Nam. Bên cạnh đó còn có hình ảnh "bà già tóc bạc" được dẫn dắt bởi gậy trúc. Bà lặng lẽ "nam mô" dưới ngôi chùa nhỏ. Tuy khác biệt về lứa tuổi, thế hệ nhưng họ đều hướng đến một niề vui chung ngày xuân.
Bài thơ "Xuân Về" quả thật đã ghi dấu ấn sâu đậm trong lòng bạn đọc. Bằng lối viết giản dị, gần gũi, ngôn từ mộc mạc, Nguyễn Bính đã đưa người đọc trở về với thế giới tuổi thơ. Ở đó có những cánh đồng thơm ngát gạo, có những lời ru ngọt ngào của mẹ và cả những lễ hội ngày xuân tưng bừng, náo nhiệt.