Thơ ca là nơi mà mỗi thi sĩ có thể gửi gắm những tình cảm, cảm xúc chân thật nhất của mình. Mỗi bài thơ đều là những trải nghiệm của nhà thơ với cuộc sống, đôi khi nó còn là những trăn trở, day dứt về số phận con người. Bàn về thơ, PGS.TS Lê Huy Bắc cho rằng: “Khi nhà thơ thành thực đi đến tận lòng mình thì sẽ gặp trái tim nhân loại, sẽ chạm tới nỗi lòng của bao người.” Điều đó được thể hiện rõ nét qua bài thơ “Khói bếp chiều ba mươi” của Nguyễn Trọng Hoàn.
Bài thơ mở đầu bằng khung cảnh bình dị của làng quê vào chiều cuối năm:
“Chiều cuối năm mẹ đứng bên bếp lửa
Lặng lẽ đun cái bếp nhà quê
Ngồi nhìn lại năm cũ với buồn vui
Năm mới đến từ lối ngõ quê hương”
Tác giả đã khắc họa hình ảnh người mẹ tần tảo, quen thuộc đang nhóm lên ngọn lửa của sự sống, của niềm tin, của hy vọng. Mẹ lặng lẽ nấu nướng, chuẩn bị bữa cơm tất niên, đón chào năm mới. Trong lòng mẹ lẫn lộn biết bao cảm xúc: buồn, vui xen lẫn. Buồn vì những khó khăn, vất vả trong năm cũ; vui vì hạnh phúc, hi vọng về một năm mới bình an.
“Bếp chưa lên khói sao hoàng hôn xuống
Mâm cơm chiều tự nhiên sẵn sàng
Thịt mỡ dưa hành châu ngọc đổ
Cành mai đào thắm thiết hoa vàng”
Không khí Tết đã tràn ngập khắp mọi ngóc ngách. Những làn khói bếp nghi ngút bốc lên khiến hoàng hôn buông xuống sớm. Mâm cơm tất niên đã được chuẩn bị chu đáo với đầy đủ các món ăn truyền thống. Thịt mỡ, dưa hành, bánh chưng xanh… tượng trưng cho sự tròn đầy, thịnh vượng. Cành mai, cành đào khoe sắc thắm, báo hiệu mùa xuân đã về.
“Năm cũ đi qua mang theo mọi muộn phiền
Năm mới lại về cùng nguyên tiêu hội ngộ
Tổ quốc ta sẽ đẹp lắm em ơi
Sẽ rực rỡ muôn nơi ánh lửa nồng”
Năm cũ khép lại, mang theo bao nỗi lo toan, bộn bề. Năm mới mở ra, mang theo niềm tin, hi vọng về một tương lai tươi sáng. Tổ quốc sẽ ngày càng giàu đẹp, phồn vinh. Hai câu thơ cuối cùng, tác giả nhắc đến “em”, gọi “em” như một cách để thể hiện tình yêu thương, sự gắn bó với quê hương, đất nước.
Bài thơ được viết theo thể thơ bảy chữ, ngôn ngữ giản dị, mộc mạc, gần gũi. Hình ảnh thơ cũng rất quen thuộc, thân thương. Tất cả đã góp phần thể hiện tình cảm tha thiết của tác giả dành cho quê hương, đất nước.
Nguyễn Trọng Hoàn đã khéo léo sử dụng các biện pháp tu từ như so sánh, ẩn dụ, nhân hóa… để làm tăng sức gợi hình, gợi cảm cho bài thơ. Ví dụ, hình ảnh “khói bếp” được so sánh với “hoàng hôn xuống”, khiến cho khung cảnh chiều cuối năm trở nên ấm áp, yên bình hơn. Hay hình ảnh “thịt mỡ dưa hành” được ẩn dụ cho sự no đủ, sung túc của con người.
Qua bài thơ “Khói bếp chiều ba mươi”, Nguyễn Trọng Hoàn đã thể hiện tình yêu quê hương, đất nước da diết. Tình yêu ấy được thể hiện qua những hình ảnh bình dị, thân thương của làng quê Việt Nam. Đó là bếp lửa, là mâm cơm tất niên, là cành mai, cành đào… Những hình ảnh ấy đã trở thành một phần ký ức tuổi thơ của mỗi người.
Bài thơ đã gợi lên trong lòng người đọc những cảm xúc bâng khuâng, xao xuyến về một thời đã qua. Đồng thời, bài thơ cũng nhắc nhở chúng ta về trách nhiệm của bản thân đối với quê hương, đất nước. Chúng ta cần phải cố gắng học tập, lao động để xây dựng quê hương ngày càng giàu đẹp, văn minh.
Như vậy, bài thơ “Khói bếp chiều ba mươi” của Nguyễn Trọng Hoàn là một bài thơ hay, giàu ý nghĩa. Bài thơ đã góp phần làm phong phú thêm kho tàng văn học Việt Nam, đồng thời giữ gìn và phát huy những giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc.
Có thể nói, ý kiến của PGS.TS Lê Huy Bắc là hoàn toàn đúng đắn. Khi nhà thơ thành thực đi đến tận lòng mình thì sẽ gặp trái tim nhân loại, sẽ chạm tới nỗi lòng của bao người. Tác giả Nguyễn Trọng Hoàn đã thành công trong việc thể hiện tình cảm chân thật của mình qua bài thơ “Khói bếp chiều ba mươi”. Bài thơ đã mang đến cho người đọc những cảm xúc sâu lắng về tình yêu quê hương, đất nước.