phân tích tác phẩm tự tình với quê hương

thumb up 0
thumb down
Trả lời câu hỏi của Chung Nguyễn Thu
  • Câu trả lời phải chính xác, đầy đủ dựa trên kiến thức xác thực:
    • ✔ Đối với câu hỏi trắc nghiệm: Đưa đáp án lựa chọn + giải thích lý do chọn đáp án.
    • ✔ Đối với câu hỏi tự luận: Đưa lời giải và đáp án cho câu hỏi.
    • ✔ Đối với câu hỏi trả lời ngắn: Đưa ra đáp án + giải thích lý do.
    • ✔ Chấp nhận sử dụng ảnh do thành viên viết tay, ảnh cần rõ nét, không bị mờ, vỡ ảnh.
  • Sử dụng ngôn ngữ rõ ràng, dễ hiểu.
  • Tránh đưa ra các ý kiến cá nhân mang tính chất chủ quan.
  • Nếu sử dụng thông tin từ nguồn khác, phải trích dẫn nguồn đầy đủ và chính xác.
  • Tuyệt đối không được sao chép các thông tin từ các trang khác, từ AI hoặc chatGPT.
CÂU TRẢ LỜI
avatar
Timi

07/04/2025

Trợ lý học tập AI - Câu trả lời này chỉ mang tính tham khảo

Lê Cảnh Nhạc là một nhà thơ sống và làm việc cùng thời với Nguyễn Bỉnh Khiêm. Ông đã từng giữ chức quan to trong triều đình, nhưng sau đó đã cáo quan về ở ẩn. Trong suốt cuộc đời của mình, ông luôn canh cánh bên lòng nỗi niềm thương nhớ quê hương. Nỗi niềm ấy đã được khắc họa rõ nét qua bài thơ "Quy hứng".

Bài thơ được lấy cảm hứng từ nỗi nhớ quê hương da diết, sâu sắc của tác giả. Hai câu thơ đầu tiên đã vẽ nên khung cảnh thiên nhiên mùa thu ở làng quê:

"Trời thu xanh ngắt mấy từng cao,
Cần trúc lơ phơ gió hắt hiu."

Tác giả đã sử dụng biện pháp tu từ liệt kê "trời thu xanh ngắt mấy từng cao", "cần trúc lơ phơ gió hắt hiu" để miêu tả vẻ đẹp thanh bình, yên ả của làng quê. Trời thu trong xanh, cao vời vợi, cần trúc nghiêng nghiêng trong gió se lạnh. Tất cả tạo nên một bức tranh thiên nhiên mùa thu tuyệt đẹp.

Hai câu thơ tiếp theo đã mở rộng không gian, tạo nên một bức tranh thiên nhiên huyền ảo, lung linh:

"Nước biếc trông như tầng khói phủ,
Song thưa để mặc bóng trăng vào."

Tác giả đã sử dụng biện pháp tu từ so sánh "nước biếc trông như tầng khói phủ" để gợi lên vẻ đẹp huyền ảo, lung linh của dòng sông quê hương. Bóng trăng chiếu xuống mặt nước, tạo nên một khung cảnh thơ mộng, trữ tình.

Hai câu luận đã miêu tả âm thanh của làng quê:

"Mấy chùm trước giậu hoa năm ngoái,
Một tiếng trên không ngỗng nước nào?"

Tác giả đã sử dụng biện pháp tu từ đảo ngữ "Mấy chùm trước giậu hoa năm ngoái" để nhấn mạnh sự tàn phai của thời gian. Hoa năm ngoái đã tàn phai, chỉ còn lại vài chùm hoa rụng rơi. Tiếng ngỗng trời kêu trên không trung càng làm tăng thêm nỗi buồn man mác của tác giả.

Hai câu kết đã thể hiện tâm trạng của tác giả khi trở về quê hương:

"Nhân hứng cũng vừa toan cất bút,
Nghĩ ra lại thẹn với ông Đào."

Tác giả đang trong tâm trạng vui mừng, phấn khởi khi được trở về quê hương. Tuy nhiên, ông lại cảm thấy thẹn thùng khi so sánh mình với Đào Tiềm, một danh sĩ nổi tiếng thời Lục Triều. Tác giả cảm thấy mình chưa có được khí tiết cứng cỏi, chưa cống hiến được nhiều cho đất nước như Đào Tiềm.

Bài thơ "Quy hứng" là một bài thơ hay, thể hiện được tình yêu quê hương tha thiết của tác giả. Bằng ngôn ngữ tinh tế, giàu hình ảnh, giọng điệu nhẹ nhàng, sâu lắng, tác giả đã khắc họa thành công bức tranh thiên nhiên mùa thu ở làng quê và nỗi nhớ quê hương da diết của mình. Bài thơ cũng thể hiện được khát vọng cống hiến cho đất nước của tác giả.
Hãy giúp mọi người biết câu trả lời này thế nào?
0/5 (0 đánh giá)
thumb up 0
thumb down
0 bình luận
Bình luận

sai  môn r

Hãy giúp mọi người biết câu trả lời này thế nào?
0/5 (0 đánh giá)
thumb up 0
thumb down
0 bình luận
Bình luận
avatar
level icon
tuongvi2008

07/04/2025

Chung Nguyễn Thu

Trong sự khắt khe của chế độ nam quyền độc đoán, người phụ nữ bị gạt ra bên lề, bị mất đi tiếng nói. Ngay cả trong thơ Bà Huyện Thanh Quan, tiếng nói của nữ tính dường như cũng bị giấu kín, chỉ còn tâm sự của các hiền nhân, quân tử:

“Nhớ nước đau lòng con quốc quốc

Thương nhà mỏi miệng cái gia gia”

Thì Hồ Xuân Hương xuất hiện như một hiện tượng độc đáo. Với cái tôi mới lạ, sắc sảo “bà chúa thơ Nôm” đã phản kháng mạnh mẽ trật tự, khuôn khổ của xã hội phong kiến. Trong thi phẩm “Tự tình II” Hồ Xuân Hương đã giãi bày trực tiếp nỗi niềm, tâm sự của bản thân. Từ đó cất lên tiếng nói đồng cảm, xót thương đối với số phận hẩm hiu của người phụ nữ Việt Nam trong xã hội phong kiến, đồng thời đề cao vẻ đẹp và khát vọng sống, khát vọng hạnh phúc của họ.

“Tự tình II” được viết theo thể thơ thất ngôn bát cú Đường luật. Bằng sự tài tình và tinh tế bà đã biến tấu từ một thể thơ nổi tiếng của Trung Quốc trở thành một nét thơ riêng của mình. Đúng như Lê Trí Viễn đã nói: “Dưới ngòi bút của Hồ Xuân Hương, Đường luật mất hẳn cốt cách quý tộc mà ngoan ngoãn cung hiến vần điệu cân xứng của mình cho và sử dụng theo ý muốn”. Tự tình là tự phô bày, bày tỏ cái tình của mình. Đây là một kiểu thơ thường gặp trong thơ Trung Đại như: “Tự thuật” – Nguyễn Trãi, “Tỏ lòng” – Phạm Ngũ Lão… Các nhà thơ thường tự tình khi tâm trạng, cảm xúc nỗi niềm trào dâng mãnh liệt, có nhu cầu, có khát khao được bày tỏ. Đây chính là quy luật của bài thơ.

Mở đầu bài thơ, tác giả đã đưa ta bước vào một không gian và thời gian rất đỗi quen thuộc, nỗi niềm cô đơn của con người hiện ra:

“Đêm khuya văng vẳng trống canh dồn,

Trơ cái hồng nhan với nước non.”

Đêm đã về khuya, vạn vật đang chìm vào giấc ngủ, đây là lúc lòng người trở nên sâu lắng nhất, là lúc đối diện với chính bản thân mình. Đó cũng là khoảng thời gian con người có nhiều tâm sự nhất, yếu đuối nhất và thành thật nhất. Từ láy “văng vẳng” gợi lên cho ta một không gian mênh mông, rộng lớn nhưng tĩnh lặng và trống trải, con người bỗng trở nên nhỏ bé, lạc lõng và cô đơn hơn. Câu thơ đầu của bài thơ đã gợi buồn. Cái buồn gợi ra từ sự tĩnh lặng của đêm khuya. Tiếng trống không gần (văng vẳng) mà vẫn nghe thấy cái nhịp vội vàng, gấp gáp, ấy là vì tiếng trống gợi bước đi của thời gian, gợi sự tàn phá và nó là tiếng trống được cảm nhận bằng tâm trạng. Chính vì thế mà trong cái nhịp gấp gáp, liên hồi của tiếng trống canh ta như nghe thấy cả bước đi dồn dập của thời gian và sự rối bời trong tâm trạng của nhân vật trữ tình.

Cùng với một tâm trạng trống vắng, cô đơn người phụ nữ bỗng nhận ra sự bẽ bàng trong chính duyên phận của mình “Trơ cái hồng nhan với nước non”. “Hồng nhan” là chỉ cái đẹp của người phụ nữ. Nhưng đã gọi là “cái hồng nhan” thì có nghĩa là cái đẹp đó không còn nữa. Bởi vì từ “cái” đặt ở trước từ “hồng nhan” thành một cụm danh từ cho nên danh từ đó đã được cụ thể hóa. Từ “cái” bao giờ cũng làm cho sự vật trở nên cụ thể hơn, có thể cầm nắm, sờ nếm, ngửi được mà “hồng nhan” là một danh từ chỉ vẻ đẹp dung mạo, thần thái, khí chất của người phụ nữ. Nhưng đặt từ “cái” đứng trước thì nghĩa là vẻ đẹp ấy đã tàn phai, đã hao mòn, đã không còn đẹp nữa. Phép đảo ngữ như cố tình khoét sâu thêm vào cái sự bẽ bàng của tâm trạng. “Trơ” là tủi hổ, là chai lì, không còn cảm giác. Tuy nhiên, cảm xúc này của nhân vật trữ tình không phải cảm xúc tầm thường, bởi nhà thơ đang đối diện với mình, với non nước. Cụm từ “với nước non” cho thấy nỗi niềm, tâm sự của nhà thơ trải theo không gian, bao trùm lên cảnh vật theo tầm mắt của nhà thơ. Nó không phải làm cảm xúc tầm thường, nhỏ bé. Trái lại, nó mênh mông, thấu suốt cả đời mình, thấu suốt cả nhân gian. Bởi vậy mà, từ “trơ” còn thể hiện cả bản lĩnh của nhân vật trữ tình. Từ “trơ” kết hợp với “nước non” thể hiện sự bền gan, sự thách đố. Nó gợi cho ta nghĩ đến một câu thơ của Bà Huyện Thanh Quan trong bài “Thăng Long thành hoài cổ”:

“Đá vẫn trơ gan cùng tuế nguyệt”

Nếu hai câu đề làm nhiệm vụ dẫn dắt người đọc vào hoàn cảnh tâm trạng thì hai câu thực nói rõ hơn thực cảnh và thực tình của Hồ Xuân Hương:

“Chén rượu hương đưa say lại tỉnh,

Vầng trăng bóng xế khuyết chưa tròn.”

Nỗi sầu muộn quá lớn khiến nhà thơ phải mượn rượu để giải sầu. Cụm từ “say lại tỉnh” như một vòng luẩn quẩn không lối thoát, cuộc rượu say rồi tỉnh cũng như cuộc tình vương vấn, nhanh tàn để lại sự mệt mỏi, rã rời. Vòng luẩn quẩn ấy gợi lên một chuyện tình duyên giống như một trò đùa của tạo hóa. Đứng trước thiên nhiên rộng lớn Hồ Xuân Hương mong nhận được sự an ủi và cảm thông. Tác giả sử dụng câu thơ tả cảnh ngụ tình cho thấy sự đồng nhất giữa tâm cảnh và ngoại cảnh. Bức tranh thiên nhiên cũng nhuốm buồn theo tâm trạng của nữ sĩ, quả thật:

“Cảnh nào cảnh chẳng đeo sầu

Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ”

(“Truyện Kiều” – (Nguyễn Du))

Đồng thời, cụm từ “say lại tỉnh” còn cho thấy say chỉ một khoảnh khắc còn tỉnh lại là mãi mãi. Thậm chí, trước khi say nỗi sầu đã đong đầy mà đến khi tỉnh thì nỗi sầu ấy lại tăng lên gấp bội lần. Giống như tiên thi Lí Bạch đã từng cảm nhận:

“Trừu đao đoạn thuỷ thuỷ cánh lưu,

Cử bôi tiêu sầu sầu cánh sầu”

Dịch:

“Rút dao chém xuống nước nước càng chảy mạnh

Nâng chén tiêu sầu càng sầu thêm”

Quy luật tình cảm của con người là thế, sầu thuộc về tâm trạng: “Sầu không có mối chém sao cho đứt/ Sầu không có khối đập sao cho tan”. Uống rượu có thể là một hoạt động ước lệ của Hồ Xuân Hương nhưng qua đó cũng đủ cho người đọc thấy rằng nhà thơ đang rất buồn, đang đối diện với chính mình, cô đơn và cô độc giữa đêm khuya thanh vắng. Thi nhân chống lại nỗi buồn bằng cách ngắm vầng trăng. Nhưng, Hồ Xuân Hương ngắm trăng mà lòng không thư thái bởi nhà thơ nhận ra rằng: “Vầng trăng bóng xế khuyết chưa tròn”. Trăng đã tàn, đã xế bóng cũng như tuổi đời của con người không còn trẻ trung nữa. Có thể thấy, nỗi sầu của thi nhân đã được tái hiện qua cặp câu thực đối rất chỉnh “say - tỉnh” và “khuyết - tròn”. Sầu vì tuổi đã cao mà duyên chưa chọn, sầu vì sự cô đơn, lẻ bóng một mình.

Đến với hai câu luận từ những từ ngữ đến hình ảnh và giọng thơ cho ta thấy phần nào tâm trạng phẫn uất, đau đớn tột cùng của tác giả:

“Xiên ngang mặt đất, rêu từng đám,

Đâm toạc chân mây, đá mấy hòn.”

Một loạt động từ mạnh “xiên, đâm” cùng sự kết hợp của bổ ngữ “ngang, toạc” độc đáo thể hiện sự bướng bỉnh, ương ngạnh, phản kháng. Những sinh vật nhỏ bé, thân phận hèn mọn, mềm yếu như “rêu” cũng chẳng chịu khuất phục mà muốn “xiên ngang mặt đất” để trổi dậy và trở nên mạnh mẽ hơn. “Đá” vốn dĩ đã rắn chắc nhưng lại càng muốn trở nên cứng cáp, nhọn hoắt hơn để có thể “đâm toạc chân mây”. Cùng với biện pháp đảo ngữ đã nhấn mạnh dù ở trong hoàn cảnh bi thảm nhất vẫn ẩn chứa một khát vọng mạnh mẽ, muốn vươn lên khỏi thực tại đau buồn, thể hiện sự phản kháng dữ dội, quyết liệt. Với sự tài tình trong việc sử dụng ngôn từ táo bạo, hình ảnh mạnh mẽ, lấy cảnh ngụ tình, hai câu thơ gợi lên cảnh vật đầy sinh động, đầy sức sống mãnh liệt. Sức sống đang bị nén xuống đã bắt đầu bật lên mạnh mẽ vô cùng giống như sự phản kháng của thiên nhiên cũng chính là sự phản kháng của con người.

Nhưng Xuân Hương dù tư tưởng có thể đi trước thời đại nhưng trong đời thực vẫn không thể vượt qua khỏi thân phận của mình. Vì thế, những hành vi phá phách, ngông cuồng, nổi loại dù táo tợn thế nào cũng chỉ là những vùng vẫy trong giới hạn ngôn từ mà thôi. Nhà thơ đành chấp nhận số phận của mình bằng một tiếng thở dài đầy ngao ngán:

“Ngán nỗi xuân đi xuân lại lại

Mảnh tình san sẻ tí con con”

Mùa xuân của vũ trụ, đất trời có thể tuần hoàn trở đi trở lại nhưng xuân của đời người thì mãi mãi không bao giờ có thể. Bởi vậy xuân của đất trời trở về càng càng làm cho con người thấy vô nghĩa và buồn tủi mà thôi. Thi nhân cố gắng gượng đến bao nhiêu thì cũng chỉ là một mảnh tình không trọn vẹn lại còn “san sẻ” cho nên “tí con con”. Từ “lại lại” không phải là từ láy mà là hai từ đơn hoàn toàn tách biệt. Từ “lại” thứ nhất là phó từ được dùng để nhấn mạnh thể hiện hàm ý: mong muốn cho sự việc lặp lại, diễn ra. Còn “lại” thứ hai là động từ chỉ hướng trở lại. Điều tinh tế ở đây là Xuân Hương dùng từ “mảnh tình” chứ không phải là “tấm tình” hay “cuộc tình” cho thấy sự nhỏ bé, mong manh hao khuyết đến ức xót xa, tội nghiệp. Khao khát hạnh phúc bao nhiêu thì hiện thực trae về càng buồn tủi bấy nhiêu. Khát khao về hạnh phúc vì vậy càng trở nên trớ trêu, da diết, đáng thương.

“Tự tình II” được xem là một kiệt tác đã làm nên tên tuổi của Hồ Xuân Hương với ngôn ngữ thơ điêu luyện, cảm hóa thể thơ thất ngôn bát cú để trở nên gần gũi với người Việt hơn. Qua đó bộc lộ được tài năng và phong cách của nữ sĩ. Tác giả còn khéo léo trong việc sử dụng từ ngữ, hình ảnh giàu sức tạo hình, giàu giá trị biểu cảm, đa nghĩa. Càng tinh tế hơn trong việc sử dụng các thủ pháp cổ xen lẫn những nghệ thuật độc đáo và động từ mạnh để đem đến một bài thơ như tiếng nói thương cảm đối với người phụ nữ, là sự khẳng định, đề cao vẻ đẹp và khát vọng của họ khi phải gánh chịu sức ép của thế lực phong kiến tàn bạo.

Khát vọng hạnh phúc bao nhiêu thì hiện thực trả về càng buồn tủi bấy nhiêu, khát khao về hạnh phúc vì thế càng trở nên buồn tủi, da diết, đáng thương. Điều đọng lại cuối cùng mà người đọc cảm nhận vẫn là nỗi sầu về hạnh phúc. Câu hỏi lớn nhất mà Hồ Xuân Hương gửi đến người đọc đó là: Tại sao người phụ nữ lại luôn phải chịu bất hạnh và thiệt thòi? Tại sao người phụ nữ lại không có quyền hưởng hạnh phúc một cách chính đáng? Câu hỏi như một niềm cảm hứng day dứt bao trùm toàn bài thơ. Đó cũng chính là cách gián tiếp lên tiếng tố cáo xã hội phong kiến và đòi quyền hạnh phúc cho người phụ nữ. Tuy nhiên, để trả lời câu hỏi đó trong xã hội hiện đại ngày nay cần phải khẳng định rằng người phụ nữ chỉ thực sự hạnh phúc khi chính họ tạo dựng niềm hạnh phúc cho riêng mình mà không phải trông đợi, phụ thuộc vào người khác. Rõ ràng ta thấy ở thời phong kiến, người phụ nữ là thân phận phụ thuộc, nhưng ở cuộc sống hiện tại, người phụ nữ có quyền tự chủ và phải biết phát huy tinh thần tự chủ đó. Ở một khía cạnh khác khi đọc bài thơ “Tự tình” mỗi người chúng ta hãy biết đồng cảm, chia sẻ với những bất hạnh với những mảnh đời chưa được hạnh phúc. Đây chính là giá trị nhân đạo – một khía cạnh trong thông điệp mà bài thơ muốn gửi đến người đọc.

Khép lại trang sách ở đây, ta bỗng nhớ lại câu nói của giáo sư Lê Trí Viễn: “Thơ của Hồ Xuân Hương là tiếng nói tâm tình của người phụ nữ, thể hiện một bản lĩnh sống mạnh mẽ khác thường”. Quả thật là như vậy hồn thơ dạt dào đã cho các độc giả cảm nhận được sự tàn bạo của xã hội phong kiến cùng những nỗi chua xót cho thân phận của người phụ nữ. Thông qua bài thơ đã thể hiện được giá trị hiện thực và tấm lòng nhân đạo sâu sắc của một nhà thơ “phụ nữ viết về phụ nữ”.

Hãy giúp mọi người biết câu trả lời này thế nào?
0/5 (0 đánh giá)
thumb up 0
thumb down
0 bình luận
Bình luận

Nếu bạn muốn hỏi bài tập

Các câu hỏi của bạn luôn được giải đáp dưới 10 phút

Ảnh ads

CÂU HỎI LIÊN QUAN

FQA.vn Nền tảng kết nối cộng đồng hỗ trợ giải bài tập học sinh trong khối K12. Sản phẩm được phát triển bởi CÔNG TY TNHH CÔNG NGHỆ GIA ĐÌNH (FTECH CO., LTD)
Điện thoại: 1900636019 Email: info@fqa.vn
location.svg Địa chỉ: Số 21 Ngõ Giếng, Phố Đông Các, Phường Đống Đa, Thành phố Hà Nội, Việt Nam.
Tải ứng dụng FQA
Người chịu trách nhiệm quản lý nội dung: Đào Trường Giang Giấy phép thiết lập MXH số 07/GP-BTTTT do Bộ Thông tin và Truyền thông cấp ngày 05/01/2024
Copyright © 2023 fqa.vn All Rights Reserved