Kim Lân là nhà văn chuyên viết truyện ngắn hiện đại Việt Nam. Ông sinh ra tại Bắc Ninh, trưởng thành trong kháng chiến nên hầu hết các tác phẩm của ông đều gắn bó với nông thôn và người dân miền quê. Văn chương của Kim Lân giản dị nhưng chứa đựng ý nghĩa sâu sắc, lời văn mộc mạc, giản dị dễ đi vào lòng người. Một số tác phẩm nổi tiếng của ông như Con chó xấu xí, Nên vợ nên chồng,…Và đặc biệt truyện ngắn Vợ nhặt là một tác phẩm tiêu biểu nhất, in đậm dấu ấn trong sự nghiệp cầm bút của ông.
Nhan đề “Vợ nhặt” gây sự tò mò, hấp dẫn người đọc bởi lẽ theo lẽ thường tình, lấy vợ là một việc trọng đại trong đời, phải tổ chức đàng hoàng, vậy mà ở đây lại là “nhặt vợ”. Người ta thường nhặt được những thứ bị rơi vãi ở dọc đường chứ làm gì có ai lại nhặt được vợ. Từ “nhặt” đặt đầu câu nhằm gợi lên cho người đọc cái sự xót xa về thân phận con người cùng hoàn cảnh sống quá bi đát. Đó là một sự “nhặt” đầy rẻ rúng, không ra gì. Thế nhưng trong cái hoàn cảnh khốn cùng ấy, khi mà ranh giới giữa sự sống và cái chết đang cận kề, giữa cơ hội và tuyệt vọng gần như chỉ còn đếm từng ngày thì mọi người vẫn muốn hi vọng, vẫn muốn cố gắng sống.
Trong bối cảnh nạn đói khủng khiếp năm 1945, hơn hai triệu người chết, cái giá của mạng sống rẻ rúng như rơm rác nên anh cu Tràng thô kệch, xấu xí, ế vợ bỗng nhiên “nhặt” được vợ một cách dễ dàng chỉ bằng mấy câu hát, mấy lời bông đùa “tầm phơ tầm phào”, mấy bát bánh đúc. Anh đã thoát khỏi cảnh cô đơn, côi cút. Có vợ, dù là nhặt được cũng đỡ cay đắng, tủi cực hơn. Cái mặt câng câng, vênh vênh của chàng ta toát lên vẻ tự đắc, mãn nguyện bởi chàng đã có vợ. Còn thị, thị theo không Tràng vì thị theo không đâu có nghĩa là thị tự bán mình, thị hạ thấp danh dự của một người con gái để làm vợ một cách dễ dàng. Nhưng thị cũng sẽ được cứu giúp, thị sẽ có miếng ăn, sẽ thoát khỏi cái chết đang rình rập. Và bên cạnh đó, họ thật đáng thương bởi họ luôn phải sống trong cái nhìn khinh bỉ, miệt thị của người khác bởi họ là những kẻ nhặt vợ, nhặt chồng.
Khi xây dựng nhân vật anh cu Tràng, nhà văn Kim Lân đã tập trung khắc họa nét tính cách ngờ nghệch, thô kệch nhưng lại ẩn chứa một tấm lòng nhân hậu, cao cả. Trong hoàn cảnh bình thường, với thân phận, hoàn cảnh của anh cu Tràng, chắc chắn anh sẽ không bao giờ dám nghĩ tới việc lấy vợ bởi ngoài cái thân hình gầy gò, xấu xí, anh còn chẳng có gì, thậm chí còn không lo nổi cho mình. Vậy mà chẳng hiểu sao anh lại dám cưu mang thêm một kiếp người. Mà đâu chỉ riêng Tràng, cả mẹ anh – bà cụ Tứ và cả thị – nàng dâu mới cũng đều như vậy. Họ đã dựa vào nhau để vượt qua bao thử thách nghiệt ngã. Cuối cùng, chính tình người đã chiến thắng tất cả.
Nhà văn Kim Lân đã rất khéo léo khi xây dựng tình huống truyện độc đáo, miêu tả tâm lí nhân vật thật đặc sắc, tinh tế, tạo nên sức hấp dẫn cho câu chuyện. Cảnh đoàn tụ của gia đình Tràng vào sáng hôm sau thật ấm áp, hạnh phúc, tràn trề tinh thần lạc quan, niềm hy vọng vào một cuộc sống tốt đẹp hơn. Dù đang trong cảnh đói khát cùng cực nhưng bà cụ Tứ vẫn quyên góp chút tiền nhỏ vào phong trào cứu đói và mua một chục trứng gà để dành cho con trai và con dâu. Bà cụ Tứ quả là một người mẹ hiền lành, nhân hậu, giàu đức hi sinh và tấm lòng bao dung, vị tha.
Hình ảnh lá cờ đỏ bay phấp phới vấn vương trong tâm trí Tràng khép lại thiên truyện và mở ra một trang mới trong cuộc đời của anh cu Tràng. Nó báo hiệu một sự đổi đời, một sự thay đổi mạnh mẽ, rằng cái nghèo đói sẽ được cải thiện, rằng cách mạng sẽ đem đến một cuộc đời tươi sáng, tự do, hạnh phúc hơn.
Với ngòi bút tài hoa, cách kể chuyện hấp dẫn, đan xen giữa hiện thực và trữ tình, cùng giọng văn mỉa mai, châm biếm sâu cay, Kim Lân đã vẽ nên bức tranh ảm đạm, đầy bóng tối của dân tộc trong nạn đói khủng khiếp năm 1945. Qua đó, nhà văn khẳng định và ngợi ca vẻ đẹp kì diệu trong tâm hồn con người, dù đứng trước sự hủy diệt vẫn hướng về sự sống, khát khao hạnh phúc, tin tưởng vào tương lai tươi sáng.