Trong cuộc sống, mỗi con người đều có riêng cho mình những khoảng trời bình yên. Có người coi đó là gia đình, có người lại là âm nhạc hay sở thích cá nhân. Với những người lính trong bài thơ “Tiếng hát con tàu” của Chế Lan Viên thì khoảng trời ấy chính là quê hương, xứ sở – nơi chôn rau cắt rốn của mình.
“Con gặp lại nhân dân như nai về suối cũ
Cỏ đón giêng hai, chim én gặp mùa
Như đứa trẻ thơ đói lòng gặp sữa
Chiếc nôi ngừng bỗng gặp cánh tay đưa"
Những câu thơ với nhịp điệu nhẹ nhàng mà dồn dập những hình ảnh so sánh đẹp đẽ đã khắc họa thật rõ nét cảm xúc vui sướng, hạnh phúc đến tột độ của người lính khi được gặp lại nhân dân. Họ giống như những con nai về uống nước dòng suối quen thuộc sau thời gian dài xa cách; như những mầm non cỏ cây đâm chồi nảy lộc đón mùa xuân sang; như những chú chim én mừng vui khi mùa ấm áp quay trở về; như đứa trẻ nhỏ đói lòng gặp được dòng sữa mẹ thơm ngọt, no nê; như chiếc nôi dừng bỗng được bàn tay dịu dàng của mẹ đưa. Tất cả những điều ấy khiến người chiến sĩ không khỏi xúc động, nghẹn ngào.
Tình quân dân gắn bó keo sơn, thắm thiết sâu nặng được thể hiện thật chân thành và xúc động. Những người lính ra trận chiến đấu để bảo vệ mảnh đất, bảo vệ nhân dân, bảo vệ xóm làng thân thương. Nhân dân hậu phương là nơi tiếp sức, là nguồn động lực lớn lao để họ vững tay súng, chắc nòng súng, tiến về phía trước. Tình cảm ấy mộc mạc, giản dị nhưng chất chứa và bền bỉ sâu nặng.
Không chỉ vậy, những người lính còn mang trong mình một trái tim đầy nhiệt huyết, sẵn sàng hi sinh tuổi thanh xuân tươi đẹp để cống hiến cho sự nghiệp giải phóng dân tộc, giải phóng đất nước:
“Con nhớ mế! Lửa hồng soi tóc bạc
Năm con đau, mế thức một mùa dài
Con với mế không phải hòn máu cắt
Nhưng trọn đời con nhớ mãi ơn nuôi"
Hình ảnh người mẹ Tà Ôi cần cù, chịu khó, giàu đức hi sinh vẫn luôn là hình ảnh đại diện cho những người mẹ Việt Nam anh hùng. Người mẹ ấy đã thức suốt một mùa dài để chăm sóc người con trai mắc bệnh sốt rét trong rừng. Thật mệt mỏi và khổ sở biết bao nhiêu! Thế nhưng người mẹ ấy chẳng hề quản ngại, vẫn ân cần, chu đáo quan tâm, lo lắng cho người chiến sĩ như đứa con ruột thịt của mình. Để rồi sau này, khi người lính đã khỏe mạnh trở lại, mẹ lại tần tảo làm việc như thu hái ngô, giẫm bắp, xay cám… Mẹ không có gì cả, chỉ có ngọn lửa hồng cùng tình yêu thương con vô bờ bến. Ngọn lửa ấy sáng bừng trong đêm tối, soi đường chỉ lối, giúp người chiến sĩ vượt qua mọi khó khăn, thử thách để tiếp tục bước đi. Và rồi cũng nhờ ánh lửa ấy, người con tìm thấy con đường để trở về quê hương, bản làng.
Người chiến sĩ ấy dù không sinh ra nhưng vẫn luôn ghi nhớ công ơn to lớn của người mẹ Tà Ôi nói riêng và tất cả những người mẹ Việt Nam nói chung. Đó là tình cảm kính trọng, biết ơn sâu sắc chứ không phải mối quan hệ gắn bó như “hòn máu cắt” của mẹ cha. Bởi thế, người con ấy “trọn đời con nhớ mãi ơn nuôi”.
Có thể nói, nhà thơ Chế Lan Viên đã khéo léo xây dựng những hình ảnh thơ gần gũi, giản dị nhưng giàu sức gợi, kết hợp với giọng điệu tha thiết, trìu mến và các biện pháp tu từ so sánh, điệp ngữ… để khắc họa nên tình cảm quân dân thắm thiết, sâu nặng giữa những người lính với nhân dân, với những người mẹ Việt Nam vĩ đại. Đọc những vần thơ ấy, chúng ta càng thêm yêu mến và tự hào về non sông, đất nước mình.