Nguyễn Bính được mệnh danh là nhà thơ đồng quê, bởi cái gì của ông cũng rất đỗi chân quê, bình dị. Thơ ông là tiếng lòng của người dân quê, là những hình ảnh quen thuộc nơi làng quê. Ông có mặt trong phong trào Thơ mới với tư cách là một gương mặt thơ độc đáo. Thơ Nguyễn Bính đậm chất chân quê, mang hơi thở của làng quê. Trong thơ ông, người ta thấy thấp thoáng những hồn quê, những câu chuyện tình quê chất phác, nồng hậu mà cũng rất đằm thắm. Một trong những bài thơ tiêu biểu cho phong cách thơ của Nguyễn Bính là Đợi thu.
Bài thơ Đợi thu được rút ra trong tập Lỡ bước sang ngang, tập thơ nổi tiếng và tiêu biểu nhất trong các sáng tác của Nguyễn Bính. Tập thơ này chủ yếu nói về đề tài tình yêu, với những cung bậc cảm xúc khác nhau trong tình yêu đôi lứa. Và bài thơ Đợi thu là một trong những bài thơ hay nhất viết về đề tài mùa thu của thi ca Việt Nam. Với Nguyễn Bính, mùa thu là mùa của tình yêu, của những rung động ngọt ngào, của những nỗi nhớ da diết.
Mở đầu bài thơ, tác giả đã vẽ lên trước mắt bạn đọc một bức tranh thiên nhiên mùa hè thật sống động và rực rỡ:
Có mưaa, có nắng, có màu đỏ của hoa phượng. Tất cả hòa quyện lại tạo nên một bức tranh mùa hè đẹp đẽ, tràn trề nhựa sống. Nhưng ẩn sâu trong đó là tâm trạng bâng khuâng, mong ngóng mùa thu đến. Bởi nhân vật trữ tình đang mong thu đến là mong ngày đoàn tụ, sum họp gia đình. Có lẽ vì vậy mà mùa thu mới trở thành nguồn cảm hứng bất tận cho các thi nhân.
Em cứ hẹn em sẽ đến.
Em cứ hẹn, để mà không đến đấy!
Nhìn nắng vàng bay, mấy lần nhìn nắng bay
Nắng bay theo chim, chim rời cành
Nắng bay trên đồng, rồi đứng lại bên trời.
Trong khổ thơ thứ hai, vẫn là những hình ảnh thiên nhiên quen thuộc của mùa hè: nắng vàng, bầu trời xanh cao vời vợi,... Thế nhưng, tâm trạng của nhân vật trữ tình đã có sự thay đổi rõ rệt. Nếu như ở khổ thơ đầu tiên, nhân vật trữ tình còn đang háo hức, mong chờ ngày thu đến thì ở khổ thơ thứ hai, nhân vật trữ tình đã bắt đầu có chút thất vọng, chờ đợi trong vô vọng. Em cứ hẹn, để mà không đến. Câu thơ như một lời than thở, trách móc nhẹ nhàng của nhân vật trữ tình dành cho người thương của mình.
Cứ mỗi lần nhìn nắng vàng bay, nhân vật trữ tình lại hy vọng, lại chờ đợi. Nhưng rồi lại thất vọng khi "nắng bay theo chim", "nắng bay trên đồng", "nắng đứng bên trời". Hình ảnh nắng đứng bên trời gợi ra một khoảng cách xa xôi, cách trở giữa hai người. Khoảng cách ấy khiến cho tình yêu của họ mãi chẳng thể đến được bến bờ hạnh phúc.
Nếu như ở hai khổ thơ đầu tiên, nhân vật trữ tình chỉ trực tiếp bộc lộ tâm trạng chờ đợi, mong ngóng thì ở khổ thơ thứ ba, nhân vật trữ tình đã gián tiếp thổ lộ tâm trạng của mình thông qua việc miêu tả khung cảnh thiên nhiên:
Lá mơ rơi cáo ngoài thềm
Lá vàng rơi ào đêm mưa lớn
Gió hiu hiu thổi trời hôm biêng biếc
Nghe sầu trong dạ, sầu từng cơn.
Hình ảnh lá mơ rơi, lá vàng rơi gợi liên tưởng đến sự tàn phai, rụng rời. Khung cảnh thiên nhiên cũng trở nên u buồn hơn với hình ảnh trời hôm biêng biếc và gió hiu hiu thổi. Trong lòng nhân vật trữ tình cũng dâng trào một nỗi buồn sâu sắc. Nỗi buồn ấy lan tỏa, thấm đẫm vào từng cảnh vật.
Ở khổ thơ cuối cùng, nhân vật trữ tình đã trực tiếp bộc lộ tâm trạng của mình:
Em ơi! Hãy chờ anh nhé!
Bao giờ rặng liễu xanh rì
Anh mới quên mối tình ngây thơ.
Nhân vật trữ tình tha thiết mong mỏi người mình yêu hãy chờ đợi mình. Anh sẽ nhớ em, yêu em và trân trọng em. Rặng liễu xanh rì là biểu tượng cho niềm tin và hi vọng về một tương lai tươi sáng. Nhân vật trữ tình mong rằng một ngày nào đó, anh và em sẽ lại được bên nhau, cùng nhau xây dựng một mái ấm hạnh phúc.
Đợi thu là một bài thơ ngắn gọn nhưng chứa đựng nhiều ý nghĩa sâu sắc. Qua bài thơ, chúng ta có thể cảm nhận được vẻ đẹp của mùa thu qua lăng kính của Nguyễn Bính. Đó là một mùa thu dịu dàng, lãng mạn, nhưng cũng ẩn chứa một nỗi buồn man mác. Bài thơ cũng thể hiện được tình yêu tha thiết, nồng nàn của nhân vật trữ tình dành cho người mình yêu. [/INST]