Nam Cao là một cây bút xuất sắc của nền văn học Việt Nam, ông viết rất nhiều tác phẩm gắn liền với tên tuổi của ông. Trong đó, nổi bật nhất là tác phẩm Chí Phèo, một kiệt tác của nền văn học hiện thực phản ảnh đậm nét hình ảnh nông thôn Việt Nam trước Cách mạng tháng Tám, 1945. Đọc xong tác phẩm ta không khỏi ám ảnh bởi hình ảnh của một Chí Phèo bị tha hóa, đại diện cho tầng lớp nông dân khốn khổ bị đẩy vào bước đường cùng. Nhưng trong cái khốn khổ ấy vẫn ánh lên những vẻ đẹp của nhân cách con người, đặc biệt là sự thay đổi nội tâm của Chí Phèo sau khi gặp Thị Nở.
Chí Phèo vốn là một thanh niên hiền lành, lương thiện nhưng khi anh lớn lên lại trở thành một con quỷ dữ khiến cả làng Vũ Đại phải khiếp sợ. Khi Chí Phèo mở mắt thì trời đã sáng lâu rồi. Mặt trời chắc đã cao, và nắng bên ngoài chắc là rực rỡ. Cứ nghe chim ríu rít bên ngoài đủ biết. Nhưng trong cái lều ẩm thấp vẫn mới chỉ hơi lờ mờ. Ở đây người ta thấy chiều lúc chiều lúc xế trưa và gặp đêm khi bên ngoài vẫn sáng. Chưa bao giờ Chí Phèo nhận thấy thế bởi chưa bao giờ hết say.
Nhưng bây giờ thì hắn tỉnh. Hắn đăm đăm nhìn khắp nơi: ráo ướt? Mát mẻ? Hắn biết trời xanh là gì, sông gấm là gì ... Sau những cơn say triền miên là những lúc Chí Phèo tỉnh rượu và buồn. Hắn cảm thấy buồn vì cảm nhận được tình trạng bất toàn, vô nghĩa của mình. Hắn cảm thấy lòng tốt bị chối bỏ. Và hắn cảm thấy sự già nua, gần gũi của tuổi già đang đến dần.
Cũng giống như mọi người, Chí Phèo ao ước cuộc sống bình thường. Từ khi còn nhỏ đã ao ước có một gia đình nho nhỏ. Chồng cuốc mướn cày thuê, vợ dệt vải. Chúng lại bỏ một con lợn để làm vốn liếng. Khá giả thì mua dăm ba sào ruộng làm. Đó là những mơ ước thật đơn giản, nhưng Chí Phèo không có được. Anh bị Bá Kiến - kẻ đại diện cho giai cấp thống trị - đẩy vào bước đường cùng.
Bị đẩy vào tù, sau bảy tám năm, Chí Phèo mới ra tù và đến thẳng nhà Bá Kiến để trả thù. Nhưng hắn không trả được thù mà còn bị Bá Kiến dùng mưu mô xảo quyệt biến thành tay sai đắc lực của mình. Từ đó, Chí Phèo luôn say triền miên và trở thành một con quỷ dữ trong mắt người dân làng Vũ Đại.
Hắn thích uống rượu, mỗi lần uống rượu thì chửi tất cả làng Vũ Đại, chửi cả đứa chết, đứa đẻ ra hắn. Không ai chịu đựng được tiếng chửi của Chí Phèo, hắn cứ chửi đứa chết cha chết mẹ nào đã đẻ ra hắn để hắn phải sống kiếp sống nhục nhã như thế này.
Thế rồi, cuộc đời hắn gặp Thị Nở - một người đàn bà xấu ma chê quỷ hờn. Thị Nở và Chí Phèo gặp nhau trong một đêm trăng sáng, họ ăn nằm với nhau. Đến sáng hôm sau, Thị Nở về nhà và nghe lời khuyên can của bà cô, Thị Nở đã từ chối Chí Phèo.
Những ngày sau đó, Chí Phèo bị cảm, Thị Nở mang cho hắn một bát cháo hành. Tình yêu của Thị Nở đã khiến Chí Phèo muốn hoàn lương, muốn trở lại làm người lương thiện. Nhưng bà cô Thị Nở kiên quyết ngăn cản cháu mình đến với Chí Phèo. Cuối cùng, Chí Phèo tìm đến rượu, rồi cầm dao đi giết Bá Kiến và tự sát.
Trước khi gặp Thị Nở, Chí Phèo là một người nông dân nghèo, nhưng Chí Phèo vẫn giữ được bản chất lương thiện. Tuy nhiên, sau khi ra tù, Chí Phèo trở thành một con quỷ dữ khiến cả làng Vũ Đại phải khiếp sợ. Hắn chuyên rạch mặt ăn vạ, hắn lấy rượu để bầu bạn với mình.
Trong cơn say, hắn đến nhà Bá Kiến để trả thù. Nhưng Bá Kiến lại dùng lời ngon ngọt để dụ dỗ Chí Phèo làm tay sai cho mình. Từ đó, Chí Phèo trở thành một tay sai đắc lực của Bá Kiến, hắn chuyên đâm thuê chém mướn, đòi nợ thuê.
Cuộc đời Chí Phèo rơi vào bế tắc, hắn không còn lối thoát. Hắn muốn trở lại làm người lương thiện nhưng không thể. Trong cơn say, hắn đến nhà Bá Kiến để đòi lại công bằng. Nhưng Bá Kiến đã lừa Chí Phèo, khiến hắn giết chết Bá Kiến rồi tự sát.
Cái chết của Chí Phèo là một bi kịch. Hắn đã không thể trở lại làm người lương thiện. Cái chết của Chí Phèo là một lời tố cáo đanh thép chế độ phong kiến tàn bạo đã cướp đi quyền làm người của người nông dân nghèo. Đồng thời, nó cũng là một lời khẳng định sức mạnh của tình yêu thương. Tình yêu thương đã cứu rỗi linh hồn của Chí Phèo, giúp hắn nhận ra giá trị của cuộc sống.
Qua quá trình thay đổi nội tâm của Chí Phèo, Nam Cao đã khắc họa thành công số phận bi thảm của người nông dân nghèo trong xã hội cũ. Họ bị bần cùng hóa, lưu manh hóa, nhưng trong sâu thẳm tâm hồn họ vẫn ánh lên những vẻ đẹp của nhân cách con người.