Đỗ Phủ (712 - 770), nhà thơ hiện thực vĩ đại của Trung Quốc, đã để lại hơn 1500 bài thơ giàu giá trị hiện thực và nhân đạo sâu sắc. Trong số đó, "thu hứng" (cảm xúc mùa thu) là bài thơ thứ nhất trong chùm thơ tám bài được Đỗ Phủ sáng tác năm 766, khi đang sống phiêu dạt ở Quý Châu. Sau nửa năm kể từ khi nổ ra loạn An Lộc Sơn, nhà Đường rơi vào khủng hoảng trầm trọng. Thiên tai, hạn hán, lũ lụt, mất mùa xảy ra liên miên, khiến cho đời sống nhân dân vô cùng cực khổ. Sau khi đọc xong bài thơ này, chúng ta cảm thấy rằng đây không chỉ là một bức tranh phong cảnh mùa thu, mà còn là một bức tranh tâm trạng đầy xúc động. Qua bài thơ, chúng ta cảm nhận được nỗi nhớ quê hương và tâm trạng buồn lo của tác giả trong lúc lưu lạc.
Hai câu đầu tiên của bài thơ miêu tả cảnh rừng phong mùa thu:
> Ngọc lộ điêu thương phong thụ lâm,Vu sơn, Vu giáp khí tiêu sâm.
Dịch thơ:
> Rừng phong nhuốm màu oanh liệt,Lác đác đưa vài chiếc lá bay.Trời đất ngả sang thu, tại vùng rừng núi Vu sơn, Vu giáp - nơi địa đầu của Trung Quốc, không khí quả là tiêu điều, ảm đạm. Màu đỏ ối của rừng phong nhuộm màu trời đất, vừa mang nét đẹp bi tráng lại vừa gợi cái ảm đạm, thê lương. Những cánh rừng phong kia dường như đã bị bao phủ bởi khói sóng, sương mù, càng tăng thêm vẻ hiu hắt. Cảnh rừng thu tàn tạ được miêu tả bằng bút pháp tả thực, qua đó toát lên vẻ tâm trạng của tác giả.
Ở hai câu tiếp theo, tác giả tập trung vào việc tả cảnh sông nước:
> Giang gian ba lăng kiêm thiên dũng,Tái thượng phong vân tiếp địa âm.
Dịch thơ:
> Lòng sông thẳm sâu, sóng dậy trời,Núi Vu, kẽm Vu chống mặt đất âm u.
Hình ảnh sông nước và mây mù được miêu tả rất sinh động. Sông nước dữ dội, cuồn cuộn, sóng vọt lên tận lưng trời. Núi Vu và kẽm Vu sừng sững, uy nghiêm, cao ngất trùm lên cả khoảng không gian âm u, mờ mịt. Bằng việc sử dụng những động từ mạnh như "kiêm thiên dũng", "tiếp địa âm'', tác giả đã dựng lên bức tranh thu hùng vĩ, tráng lệ nhưng cũng không kém phần rùng rợn, dữ dội.
Sau khi tả cảnh, tác giả bắt đầu bộc lộ tâm trạng của mình:
> Tùng cúc lưỡng khai tha nhật lệ,Cô chu nhất hệ cố viên tâm.
Dịch thơ:
> Khóm cúc tuôn thêm dòng lệ cũ,Con thuyền buộc chặt mối tình nhà.
Câu thơ "Tùng cúc lưỡng khai tha nhật lệ" (Khóm cúc nở hoa đã hai lần, mở từng cánh hoa ra là chảy một dòng lệ cũ) thật cảm động. Đó là dòng lệ nóng giọt ngắn dài thấm đẫm nỗi chia ly. Hoa cúc là biểu tượng của mùa thu, cũng là loài hoa mà thi nhân ưa chuộng nhất vì nó giúp ông gợi nhớ những kỷ niệm về quê hương. Mỗi lần thấy hoa cúc nở lại làm thức dậy nỗi nhớ quê hương da diết. Không chỉ vậy, hình ảnh "cô chu" (con thuyền cô đơn) ẩn dụ cho tình cảnh cô đơn, lẻ loi của tác giả nơi đất khách quê người. Ông nhìn lên bầu trời, nhìn xuống sông nước, rồi lại nhìn về bốn phía quanh mình, đều cảm thấy cô đơn và buồn tủi.
Trong hai câu cuối cùng, tác giả trực tiếp bộc lộ nỗi nhớ quê hương:
> Hàn y xứ xứ thôi đao xích,Bạch Đế thành cao cấp mộ châm.
Dịch thơ:
> Lạnh lùng giục kẻ tay dao thước,Thành Bạch, chày vang bóng ác tà.
Những người thợ dệt phải may áo chống rét, tiếng chày đập vải nhộn nhịp trên sông. Âm thanh của tiếng chày đập vải ấy càng làm ta thêm thấu rõ nỗi buồn thương, nỗi nhớ quê hương của tác giả. Nỗi niềm tâm sự ấy đã được gửi trọn vào tiếng dao thước may áo rét và tiếng chày đập vải bên sông.
Bài thơ "Thu hứng" là một bài thơ hay, chứa đựng những cung bậc cảm xúc khó diễn tả. Bằng ngòi bút đặc tả cùng với bút pháp tả cảnh ngụ tình, Đỗ Phủ đã khắc họa bức tranh thiên nhiên mùa thu ở vùng Quảng Lăng, thượng nguồn Trường Giang. Đồng thời, thông qua đó, tác giả đã bộc lộ nỗi nhớ quê hương cùng tâm trạng buồn lo của mình khi lưu lạc nơi đất khách quê người. Có thể nói, "Thu hứng" là một bài thơ đậm đà chất trữ tình, tái hiện cuộc sống thường ngày của nhân dân Trung Quốc trong thời kỳ loạn lạc.