Văn chương nghệ thuật luôn hướng đến con người, vì con người mà cất lên tiếng nói. Văn học chân chính phải là văn học vì con người, vì cuộc đời. Bởi vậy, có ý kiến cho rằng:"Dù được sáng tác theo trào lưu lãng mạn hay hiện thực, những trang viết của nhà văn tài năng và tâm huyết đều thấm đẫm tinh thần nhân đạo sâu sắc". Điều này đã được thể hiện rõ nét trong hai văn bản "Tức nước vỡ bờ" (Ngô Tất Tố) và "Lão Hạc" (Nam Cao).
Trước hết, chúng ta cần hiểu thế nào là "tinh thần nhân đạo"? Nhân đạo là tình cảm tốt đẹp giữa người với người, là sự đồng cảm, thấu hiểu, sẻ chia, xót thương, yêu quý, trân trọng những giá trị của con người. Tinh thần nhân đạo trong văn học được biểu hiện ở tấm lòng yêu thương con người, trân trọng những phẩm chất tốt đẹp của họ; xót thương, cảm thông với những đau khổ, bất hạnh của con người; đồng thời tin tưởng vào khả năng vươn dậy của con người khi cơ hội được mở ra.
Trong văn học Việt Nam giai đoạn 1930 - 1945, tinh thần nhân đạo được thể hiện xuyên suốt trong các tác phẩm thuộc mọi khuynh hướng văn học khác nhau. Trong đó, tiêu biểu nhất là hai văn bản "Tức nước vỡ bờ" (trích Tắt đèn) của Ngô Tất Tố và "Lão Hạc" của Nam Cao.
Đọc "Tắt đèn", đặc biệt là đoạn trích "Tức nước vỡ bờ", chúng ta thấy hiện lên hình ảnh chị Dậu - một người phụ nữ yêu chồng, thương con, giàu đức hi sinh. Vì hoàn cảnh gia đình khó khăn, anh Dậu bị bắt trói, đánh đập dã man vì chưa nộp đủ suất sưu của người em chồng đã mất. Chị Dậu chạy ngược xuôi, vay mượn khắp nơi để lo tiền nộp thuế nhưng vẫn không đủ tiền. Anh Dậu bị bọn tay sai đánh gần chết, được hàng xóm đưa về. Thương chồng, chị Dậu nấu cháo, quạt cho nguội rồi nhẹ nhàng nâng chồng dậy, an ủi, động viên chồng cố ăn chút cháo. Từng cử chỉ, hành động của chị Dậu đều toát lên sự ân cần, dịu dàng, chứa đựng bao tình yêu thương, săn sóc và mong chồng sớm khỏi bệnh. Không những thế, trước sự hung hăng, bạo ngược của lũ tay sai, chị Dậu không hề nao núng sợ hãi, run sợ. Trái lại, chị đã dũng cảm vùng dậy đấu tranh, quyết liệt chống lại bọn cai lệ và lí trưởng để bảo vệ chồng mình. Hành động ấy thật đáng ngưỡng mộ biết nhường nào!
Cũng như chị Dậu, lão Hạc trong truyện ngắn cùng tên của Nam Cao cũng là một người nông dân nghèo khổ, bất hạnh. Vợ mất sớm, lão gà trống nuôi con một mình. Nhưng vì không đủ tiền cưới vợ, con trai lão phẫn chí bỏ đi phu đồn điền cao su. Bao nhiêu tình yêu thương, lão dành trọn cho cậu Vàng - kỉ vật duy nhất người con để lại. Lão yêu nó lắm. Mỗi lần nhìn thấy nó, lòng lão lại nhớ đến đứa con trai đang ở xa. Thế nhưng, trận ốm bất ngờ khiến lão trở nên tay trắng. Sức yếu dần. Việc làm ít dần. Rồi bão đến, hoa màu mất sạch. Lão rơi vào hoàn cảnh khó khăn, cùng cực. Để giữ mảnh vườn cho con trai về có đất sinh sống, lão đành cắn răng bán con chó. Bán cậu Vàng xong, lão đau đớn, ân hận và day dứt tột cùng. Lão từ chối mọi sự giúp đỡ của ông giáo. Lão nghĩ chỉ có cái chết mới giải thoát được cho mình. Và lão chọn cái chết. Cái chết của lão Hạc khiến nhiều người bất ngờ. Nó ghê gớm, dữ dội như một cơn bão mạnh. Lão chết vật vã, quằn quại trong đau đớn. Hình ảnh lão Hạc lúc cuối đời khiến người đọc thương cảm, xót xa vô cùng.
Như vậy, cả chị Dậu và lão Hạc đều là những người nông dân nghèo khổ, bất hạnh, đáng thương. Họ là nạn nhân của xã hội phong kiến nửa thực dân. Cuộc sống của họ đầy rẫy những đau khổ, bất hạnh. Tuy nhiên, vượt lên trên hoàn cảnh, họ vẫn giữ được những phẩm chất tốt đẹp của con người. Đó là tình yêu thương, sự hi sinh, lòng tự trọng... Chính điều đó đã tạo nên sức mạnh để họ chiến thắng nghịch cảnh, vươn tới ánh sáng của cuộc đời.
Không dừng lại ở đó, các nhà văn còn bày tỏ thái độ của mình đối với những con người ấy. Nhà văn Ngô Tất Tố bộc lộ thái độ trân trọng, ngợi ca trước vẻ đẹp của người phụ nữ nông thôn - chị Dậu. Qua đoạn trích "Tức nước vỡ bờ", tác giả phơi bày bộ mặt tàn ác, bất nhân của xã hội thực dân phong kiến đương thời đẩy người nông dân vào bước đường cùng. Nhà văn Nam Cao cũng thể hiện sự đồng cảm, xót thương trước số phận đáng thương của người nông dân. Đồng thời, ông cũng bày tỏ thái độ trân trọng, ngợi ca trước những phẩm chất cao quý của họ.
Như vậy, dù được sáng tác theo trào lưu lãng mạn hay hiện thực, những trang viết của nhà văn tài năng và tâm huyết đều thấm đượm tinh thần nhân đạo sâu sắc. Đây cũng chính là đặc trưng nổi bật của văn học Việt Nam giai đoạn 1930 - 1945.
<>