Hồ Xuân Hương là một nhà thơ nổi tiếng của nước ta vào cuối thế kỉ XVIII, đầu thế kỉ XIX, cùng thời với đại thi hào Nguyễn Du. Bà để lại sự nghiệp sáng tác gồm khoảng 40 bài thơ chữ Nôm và hơn 50 bài thơ chữ Hán. Thơ Hồ Xuân Hương đã làm rõ cá tính độc đáo của bà, một con người mà nhan sắc chỉ hòng bề ngoài nhưng tâm hồn thì vô cùng sâu sắc, phóng túng. Đặc biệt, những bài thơ trữ tình của bà mang một giọng điệu riêng, vừa tinh nghịch, vừa hài hước, trào phúng, nhưng lại rất đằm thắm và nhiều khi hết sức bi lụy. Bánh trôi nước là một trong những bài thơ đặc sắc nhất của bà.
Bài thơ miêu tả hình ảnh chiếc bánh trôi nước. Đây là loại bánh được làm bằng bột gạo nếp, qua bàn tay của người làm bánh, những viên bột nếp ấy được nhào nặn thành những viên tròn trịa, bên trong có viên đường nhỏ đỏ hồng. Khi luộc thấy bánh lên tức là bánh đã chín. Bài thơ này dường như không chỉ đơn giản là miêu tả cách làm bánh thôi đâu mà qua đó, nhà thơ còn muốn nói lên vẻ đẹp và số phận của người phụ nữ trong xã hội cũ:
"Thân em vừa trắng lại vừa tròn
Bảy nổi ba chìm với nước non
Rắn nát mặc dầu tay kẻ nặn
Mà em vẫn giữ tấm lòng son."
Mở đầu bài thơ, Hồ Xuân Hương sử dụng mô-típ quen thuộc "thân em" để có thể ngợi ca vẻ đẹp của người phụ nữ. Hình ảnh người phụ nữ hiện lên với vẻ đẹp đầy đặn, mặn mà. Chỉ bằng hình ảnh chiếc bánh trôi nước, nhưng người ta đã liên tưởng đến vẻ đẹp của người phụ nữ - xinh đẹp, trắng trẻo, tròn trịa, đầy sức sống. Người phụ nữ luôn tự hào về vẻ đẹp của mình, nhưng cùng với đó là nỗi đau về thân phận bèo dạt mây trôi, bảy nổi ba chìm chẳng biết tới nơi nào:
"Bảy nổi ba chìm với nước non"
Câu thơ thứ hai đã gợi lên sự bấp bênh, nổi trôi của số phận người phụ nữ trong xã hội xưa. Thành ngữ "bảy nổi ba chìm" được vận dụng tài tình nhằm gợi tả số phận người phụ nữ Việt Nam trong xã hội phong kiến xưa. Để bày tỏ nỗi xúc động thương cảm của bà Hồ Xuân Hương đứng trước số phận lênh đênh chìm nổi chẳng biết đi về đâu của người phụ nữ. Chỉ mặc cho số phận quyết định hạnh phúc của cuộc đời mình.
Không chỉ vậy, người phụ nữ còn không được định đoạt số phận của mình:
"Rắn nát mặc dầu tay kẻ nặn"
Người phụ nữ không được phép sống theo sở thích của mình, không được phép đưa ra lựa chọn cho cuộc đời của mình. Ở lối sống cổ hủ phong kiến ngày xưa, người phụ nữ phải sống theo kiểu "cha mẹ đặt đâu con ngồi đấy", họ không hề có quyền lựa chọn đối tượng mà mình yêu thương, cũng như không được phép đưa ra bất cứ lựa chọn nào cho cuộc đời của mình. Đó chính là điểm đáng thương nhất của người phụ nữ. Nhưng dù bị chà đạp, bị vùi dập, bị coi thường, họ vẫn luôn giữ cho mình phẩm chất cao quý:
"Mà em vẫn giữ tấm lòng son."
Dù bị bất công, dù bị chèn ép, dù bị bóc lột, người phụ nữ Việt Nam vẫn luôn giữ được vẻ đẹp trong tâm hồn của mình. Họ vẫn luôn son sắt thủy chung. Những người phụ nữ đó xứng đáng được hưởng một cuộc sống tốt hơn, xứng đáng với hai chữ "công bằng" mà không bao giờ bị đối xử một cách tàn nhẫn và vô nhân đạo như vậy.
Bài thơ sử dụng thể thơ thất ngôn tứ tuyệt, chỉ vỏn vẹn bốn dòng thơ nhưng đã khắc họa một cách chân thực, rõ nét hình ảnh người phụ nữ Việt Nam trong xã hội xưa. Giọng thơ vừa chứa đựng niềm tự hào, niềm kiêu hãnh, vừa xót xa, ngậm ngùi, phản ánh cả hai chiều của một vấn đề xã hội. Một mặt, người phụ nữ Việt Nam rất đẹp, tâm hồn thanh cao, trong sáng; mặt khác, họ phải chịu sự đè nén áp bức của xã hội phong kiến, chịu đựng bao nhiêu bất công ngang trái.
Đọc xong bài thơ, ta càng thêm thương, thêm trân trọng người phụ nữ. Đồng thời, ta cũng càng thêm căm ghét cái xã hội phong kiến bất công, thối nát đã gây nên bao nhiêu khổ đau cho người phụ nữ Việt Nam.