Trần Tuấn Khải (1894 - 1983), bút danh chính là Á Nam; quê ở làng Quang Xán, xã Mĩ Hà, huyện Mĩ Lộc, tỉnh Nam Định. Ông là một trong những chí sĩ yêu nước đầu thế kỉ XX với ngòi bút sắc bén, tràn đầy nhiệt huyết và lòng yêu nước. Thơ ông mang đậm khuynh hướng lãng mạn trữ tình và có tác dụng khích lệ, động viên tinh thần nhân dân đương thời bỏ rác rời bỏ thực dân Pháp quay về với quê hương, nguồn cội. Trong đó, tiêu biểu nhất là bài thơ " Hai chữ nước nhà" được sáng tác năm 1926. Tác phẩm gồm 36 câu thơ song thất lục bát đã tái hiện lại bối cảnh lịch sử đất nước ta thế kỉ XV khi nhà Hồ loay hoay với chính sách táo bạo nhưng đầy tham vọng - xây dựng phố cống để chống lại giặc Minh xâm lược. Qua đó, tác giả gửi gắm nỗi đau mất nước, niềm tự hào dân tộc và khát vọng độc lập tự do mãnh liệt.
Mở đầu bài thơ là lời dặn dò của Phi Khanh dành cho Nguyễn Trãi trong hoàn cảnh đặc biệt: bị giặc Minh bắt giam và áp giải sang Trung Quốc, phải sống cuộc đời lưu lạc nơi xứ người. Trên đường đi, ông gặp lại con trai duy nhất của mình - Nguyễn Trãi tại cửa ải Hoa Lư (Chi Lăng, Lạng Sơn).
Lời dặn dò của Phi Khanh vừa là lời trao gửi cuối cùng cho con trai, vừa là lời khích lệ, động viên con hãy vượt lên số phận, tiếp tục gánh vác sứ mệnh cứu nước, cứu dân.
"Chốn ải Bắc mây sầu ảm đạm,
Cõi giời Nam gió thảm đìu hiu,
Bốn bề hổ thét chim kêu,
Đoái nom phong cảnh như khêu bất bình."
Tác giả đã mượn cảnh để nói lên tâm trạng của mình trong hoàn cảnh ấy. Đó là nỗi đau đớn, xót xa, tủi nhục của một vị tướng thua trận, phải chịu cảnh tù đày, nhìn đất nước rơi vào tay giặc ngoại xâm. Hình ảnh "mây sầu ảm đạm", "gió thảm đìu hiu", "hổ thét chim kêu" đã góp phần tạo nên bức tranh thiên nhiên u ám, thê lương, phản ánh tâm trạng bi thương, tuyệt vọng của Phi Khanh.
Trong hoàn cảnh ấy, Phi Khanh càng thêm trân trọng và tự hào về truyền thống anh hùng, bất khuất của dân tộc Việt Nam. Ông nhắc nhở con trai rằng dù đất nước đang lâm nguy nhưng không vì thế mà nản lòng, buông xuôi. Trái lại, phải lấy đó làm động lực để đứng lên đấu tranh giành lại độc lập, tự do cho Tổ quốc.
"Hỏi ta kỳ chủ yếu hơn là,
Nước mất nhà tan biết thuở nào?"
Phi Khanh đặt ra hàng loạt câu hỏi tu từ nhằm khơi gợi lòng yêu nước, tinh thần tự tôn dân tộc trong lòng con trai. Những câu hỏi ấy như một lời thúc giục, khích lệ Nguyễn Trãi hãy dũng cảm đứng lên, tiếp nối truyền thống cha anh, góp sức mình vào công cuộc đấu tranh giành lại độc lập, tự do cho Tổ quốc.
"Xiết chặt tay nhau chung lòng cứu giúp,
Sớm tối khuyên nhau gắng chí bền,
Để giữ cơ đồ cho vững chắc,
Dựng xây nền thái bình muôn thuở."
Phi Khanh mong muốn hai cha con cùng chung sức, đồng lòng, đoàn kết với nhân dân cả nước để cứu vớt cơ đồ đang trên bờ vực thẳm. Ông cũng nhắn nhủ con trai hãy luôn kiên trì, bền bỉ, không nản lòng trước khó khăn, thử thách để xây dựng nền thái bình muôn thuở cho dân tộc.
Những lời dặn dò của Phi Khanh đã chạm đến trái tim của Nguyễn Trãi, khiến ông xúc động nghẹn ngào. Ông hiểu rõ trách nhiệm to lớn của mình đối với đất nước, dân tộc và nguyện sẽ dốc hết sức mình để thực hiện lời dặn dò của cha.
Bài thơ "Hai chữ nước nhà" là một minh chứng cho thấy tấm lòng yêu nước, thương dân sâu sắc của Trần Tuấn Khải. Thông qua lời dặn dò của Phi Khanh dành cho Nguyễn Trãi, tác giả đã khơi dậy lòng yêu nước, tinh thần tự tôn dân tộc trong mỗi người đọc, đồng thời cổ vũ họ hãy đứng lên đấu tranh giành lại độc lập, tự do cho Tổ quốc.
Về nghệ thuật, bài thơ được viết theo thể thơ song thất lục bát, một thể thơ truyền thống của dân tộc. Thể thơ này có nhịp điệu chậm rãi, du dương, phù hợp với việc diễn tả những tâm trạng buồn bã, tiếc nuối, uất ức. Ngôn ngữ bài thơ hàm súc, giàu nhạc điệu và hình tượng, góp phần thể hiện thành công nội dung tư tưởng của tác phẩm.
Có thể nói, bài thơ "Hai chữ nước nhà" là một tác phẩm hay và ý nghĩa, xứng đáng là một trong những áng thơ tiêu biểu của văn học Việt Nam giai đoạn đầu thế kỷ XX.