Trong kho tàng văn học Việt Nam có rất nhiều thể loại và các tác giả nổi bật ở mỗi thể loại ấy. Nếu như Nguyễn Tuân được mệnh danh là bậc thầy ngôn từ với thể loại tùy bút thì Kim Lân lại ghi dấu ấn bởi tài năng viết truyện ngắn. Trong đó, truyện ngắn Làng là một trong số những tác phẩm tiêu biểu nhất của ông. Truyện đã khắc họa thành công nhân vật ông Hai - một người nông dân chân chất nhưng mang nặng tình yêu làng và lòng yêu quê hương, đất nước sâu sắc.
Truyện lấy bối cảnh là những năm tháng kháng chiến chống thực dân Pháp đầy cam go và thử thách. Ông Hai là một người con của làng Chợ Dầu nhưng vì hoàn cảnh gia đình mà phải rời làng đi tản cư. Thế nhưng, chẳng lúc nào ông thôi nhớ về làng của mình với những kỉ niệm thật đẹp. Tình yêu ấy được thể hiện rất rõ ngay từ khi mới bắt đầu truyện, nhưng càng về sau, trong hoàn cảnh thử thách, tình cảm ấy càng bộc lộ rõ nét hơn.
Tình yêu làng của ông Hai được thể hiện qua sự tự hào và niềm mến thương mãnh liệt. Ở nơi tản cư, cứ thấy ai nhắc đến tên làng là ông vui sướng lắm, ông khoe về cái làng của mình bằng một tình cảm tự nhiên, đầy ngọt ngào. Đó không chỉ là niềm tự hào về một ngôi làng đẹp, trù phú mà còn là niềm kiêu hãnh khi so sánh với những làng khác. Có lẽ đối với ông, làng chính là thứ gì đó quan trọng vô cùng, dù có phải bươn chải ngoài thị trấn năm mươi cây số, cơm cà cháng canh nhưng chưa bao giờ ông nghĩ sẽ chán cái làng của mình. Ấy vậy mà đến khi xa làng rồi, ông mới thấm thía cái tình cảm gắn bó thiêng liêng ấy. Ông nhớ từng cái cây, từng con đường, nhớ những ngày tháng lao động cùng anh em, rồi thì những buổi trò chuyện chia sẻ tâm tình giữa giờ nghỉ giải lao. Tất cả những điều ấy, sao mà có thể quên cho được.
Thế nhưng, cuộc đời trớ trêu, đúng lúc ông Hai mừng vì nghe ngóng được tin làng trở về thì cũng là lúc ông đau đớn nhận hung tin rằng làng theo Tây. Cái tin ấy như sét đánh ngang tai, ông bỗng lặng hẳn đi, củ khoai trong miệng ông nghẹn bứ, chua chát và tuyệt vọng. Từ những nỗi niềm tự hào, ông bỗng chốc chuyển sang mặc cảm, thù ghét cái làng của mình. Ông xấu hổ đến mức không dám bước ra khỏi nhà, ngồi trong nhà mà nước mắt cứ tuôn rơi, ông xấu hổ vì sợ người ta bàn tán về cái làng Chợ Dầu theo giặc. Rồi nỗi ám ảnh, day dứt, dằn vặt cứ bám lấy ông suốt mấy ngày trời khiến ông sinh ra trầm cảm, không nói không rằng, thậm chí là từ chối những bữa ăn mà bà hai cố gắng dành phần cho chồng. Những suy nghĩ quẩn quanh trong đầu ông có lẽ bất cứ ai đã từng đọc truyện cũng có thể thấu hiểu. Đó là những suy nghĩ như: " Hay là quay về làng", "về làng tức là bỏ kháng chiến, bỏ cụ Hồ",... Và rồi cuối cùng ông cũng đã vỡ lẽ, hiểu được đâu là lẽ phải, là tình yêu thực sự. Cái giây phút ông quyết định "Làng thì yêu thật, nhưng làng theo Tây mất rồi thì phải thù", ta không chỉ trân trọng mà còn cảm phục biết bao nhiêu cái tấm lòng trong sạch, cao đẹp của ông Hai.
Và rồi, mọi thứ như được đẩy lên đỉnh điểm khi mà cái tin làng Chợ Dầu theo giặc được cải chính. Lúc này đây, ông Hai như sống dậy, trẻ trung hơn, mạnh mẽ hơn. Cái dáng hình buồn thỉu, ủ rũ mọi hôm giờ đã biến mất, thay vào đó là sự hớn hở, vui tươi khi nghe tin làng bị giặc đốt nhẵn. Tuy nhà của ông bị cháy nhưng dường như nó không làm ông bận tâm, mà ngược lại, cái tin làng Chợ Dầu theo giặc được cải chính đã khiến ông sung sướng đến tột độ. Phải chăng, với người nông dân, làng là tất cả? Phải chăng, đối với họ, làng chính là máu thịt, là xương cốt, là gia đình, là quê hương, tổ quốc?
Bằng việc sử dụng thành công nghệ thuật miêu tả tâm lí nhân vật, kết hợp với việc sử dụng linh hoạt, phù hợp ngôn ngữ độc thoại, đối thoại,... Kim Lân đã xây dựng thành công nhân vật ông Hai - một người nông dân nghèo khổ, yêu làng, yêu nước da diết. Qua nhân vật này, người đọc không chỉ cảm phục tinh thần đấu tranh chống thực dân Pháp kiên cường, bất khuất mà còn xúc động trước vẻ đẹp tâm hồn của những người nông dân hiền lành, chất phác, yêu nước, yêu cách mạng.
Như vậy, với cốt truyện đơn giản nhưng lại để lại ấn tượng sâu đậm trong lòng người đọc, truyện ngắn Làng của Kim Lân xứng đáng là một trong những truyện ngắn xuất sắc nhất của nền văn học Việt Nam thế kỉ XX.