
2 giờ trước
20 phút trước
Trong kho tàng thơ ca Việt Nam trung đại, Hồ Xuân Hương là nữ sĩ đặc biệt nhất: táo bạo, cá tính, dám cất lên tiếng nói bênh vực người phụ nữ trong xã hội phong kiến nam quyền bất công. Một trong những bài thơ tiêu biểu thể hiện sâu sắc tiếng nói thương cảm và phản kháng mạnh mẽ của bà đối với số phận phụ nữ là bài Làm lẽ. Qua bài thơ, Hồ Xuân Hương đã thể hiện nỗi cay đắng của người phụ nữ bị rơi vào cảnh chồng chung, đồng thời bộc lộ khát vọng sống, khát vọng hạnh phúc chính đáng.
Mở đầu bài thơ, nhà thơ gợi lên thân phận nhỏ bé và tủi cực của người phụ nữ làm lẽ qua hình ảnh so sánh đầy xót xa:
"Kẻ đắp chăn bông kẻ lạnh lùng,
Chém cha cái kiếp lấy chồng chung."
Sự đối lập “đắp chăn bông” – “lạnh lùng” không chỉ tả sự chênh lệch về hoàn cảnh mà còn cho thấy sự bất công tột cùng trong cuộc sống chồng chung. Một người được yêu thương, được che chở như chiếc “chăn bông”, còn người kia phải chịu sự thờ ơ, lạnh nhạt. Câu thơ như tiếng thở dài u uẩn, vừa chua xót vừa đầy uất hận. Lời nguyền “chém cha cái kiếp lấy chồng chung” là tiếng kêu phản kháng mạnh mẽ của người phụ nữ – điều mà trong văn học trung đại rất hiếm thấy. Hồ Xuân Hương đã dám gọi tên nỗi khổ mà xã hội coi như “lẽ thường”, nói thay cho bao số phận bất hạnh.
Hai câu tiếp theo tiếp tục khắc sâu nỗi tủi hờn của người phụ nữ miền kiếp lẽ:
"Năm thì mười hoạ hay chăng chớ,
Một tháng đôi lần có cũng không."
Từng chữ trong hai câu thơ là sự cay nghiệt của phận người: “năm thì mười hoạ” – hiếm hoi, “hay chăng chớ” – mơ hồ, không chắc. Niềm vui, sự quan tâm từ người chồng đến với người vợ lẽ ít ỏi như giọt nước nhỏ xuống sa mạc. Thậm chí “có cũng như không”, bởi lời hứa hẹn, sự ghé thăm ấy quá chừng mong manh. Đó là cách nhà thơ khắc hoạ nỗi cô đơn day dứt, sự thiếu thốn tình yêu – điều chính đáng mà người phụ nữ nào cũng khao khát.
Ở hai câu kết, giọng thơ chuyển từ chua chát sang quyết liệt, thể hiện sức phản kháng mãnh liệt:
"Cố đấm ăn xôi, xôi lại hẩm,
Cầm bằng làm mướn, mướn không công."
Cách nói dân gian “cố đấm ăn xôi” được vận dụng độc đáo, tạo nên hình ảnh giàu tính biểu cảm. Người phụ nữ cố gắng chịu đựng, hi vọng nhận được chút hạnh phúc, nhưng cuối cùng nhận lại “xôi lại hẩm” – hạnh phúc chẳng trọn vẹn, thậm chí còn thêm phần tủi nhục. So sánh “làm mướn, mướn không công” là sự tự ý thức đầy đau đớn về thân phận: người đàn bà làm lẽ bị đối xử như một kẻ làm thuê mà không được trả công, nghĩa là không được thừa nhận, không được trân trọng.
Qua toàn bộ bài thơ, có thể thấy ngôn ngữ của Hồ Xuân Hương rất sắc sảo, giàu hình ảnh dân gian, gần gũi mà thấm đượm nỗi xót xa cho con người. Nữ sĩ đã mạnh mẽ lên án chế độ đa thê bất công của xã hội phong kiến – nơi mà người phụ nữ, dù tài năng hay phẩm hạnh, vẫn bị biến thành đồ vật trong tay đàn ông. Nhưng bên cạnh nỗi đau là tinh thần phản kháng mạnh mẽ, là sự khẳng định quyền được yêu thương, được sống hạnh phúc của người phụ nữ.
1 giờ trước
Trong thế giới văn học Việt Nam, tác phẩm của Hồ Xuân Hương luôn là điểm sáng với sự hài hước, sâu sắc và đầy ý nghĩa. Bài thơ "Làm Lẽ" của bà không chỉ là một tác phẩm văn học đẹp mắt mà còn là một tác phẩm mang đậm tinh thần của một người phụ nữ tự do, sáng tạo và không ngần ngại thể hiện quan điểm của mình.
Bài thơ "Làm Lẽ" của Hồ Xuân Hương được xây dựng với một cấu trúc đơn giản nhưng sâu sắc. Thơ ngắn với ba câu chữ nhưng lại chứa đựng một thông điệp lớn lao về sự tự do, tinh thần sáng tạo và ý chí mạnh mẽ của con người. Từ ngôn ngữ đến cấu trúc, tất cả đều phản ánh phong cách riêng của Hồ Xuân Hương, với sự hài hước, sắc bén và sự độc đáo.
Bài thơ "Làm Lẽ" mở đầu bằng câu "Nữ tử ở chung với nam phòng", một cách miêu tả rất hình dung và sắc bén về hình ảnh của người phụ nữ trong xã hội phong kiến, nơi mà phụ nữ thường bị ràng buộc và hạn chế trong quyền lực và tự do cá nhân. Tuy nhiên, câu thơ này cũng chứa đựng một sự phản kháng, bởi từ "ở chung" đã tỏ ra sự không hài lòng và tự do bị hạn chế của người phụ nữ.
Tiếp theo, câu thơ "Trong một góc chật hẹp một mình" nhấn mạnh sự cô đơn và hẹp hòi của cuộc sống của người phụ nữ trong xã hội, nhưng đồng thời cũng là sự tự chủ và sáng tạo của họ trong việc tìm kiếm tự do và ý chí riêng của mình.
Cuối cùng, câu thơ "Chớ coi đời nàng phụ bạc làng" là một lời khuyên mạnh mẽ, gợi nhắc về sự đề cao giá trị và phẩm chất của phụ nữ, đồng thời phản ánh tinh thần mạnh mẽ và không ngần ngại của Hồ Xuân Hương trong việc khẳng định bản thân và quan điểm của mình.
Tóm lại, bài thơ "Làm Lẽ" của Hồ Xuân Hương không chỉ là một tác phẩm văn học nổi tiếng của văn học Việt Nam mà còn là một tuyên ngôn về sự tự do, sự độc lập và sự đánh giá cao giá trị của người phụ nữ trong xã hội. Đồng thời, nó cũng là một tác phẩm đầy ý nghĩa và cảm hứng cho những người đang tìm kiếm sự tự do và sáng tạo trong cuộc sống.
2 giờ trước
Hồ Xuân Hương, con người có sức sống mãnh liệt, có ý thức cá nhân sâu sắc, khao khát hạnh phúc lứa đôi lại rơi vào tấn bi kịch đau lòng nhất của người phụ nữ: làm lẽ. Bà là đứa con của một người vợ lẽ. Rồi chính bà lấy chồng hai lần, cả hai lần đều làm lẽ. Tất cả những thảm cảnh làm lẽ của mẹ bà, của bà và của bao người đàn bà bất hạnh khác dưới chế độ đa thê đáng nguyền rủa trong xã hội phong kiến đã dồn nén lại thành một khôi thuốc nổ: bài thơ “Làm lẽ”. Bài thơ có sức công phá ghê gớm vào chế độ đa thê, lớn tiếng đòi quyền sống, đòi hạnh phúc lứa đôi cho người phụ nữ
Hồ Xuân Hương bị dồn nén, bị ấm ức với kiếp làm lẽ nên thơ mở lời đã bùng nổ:
“Kẻ đắp chăn bông, kẻ lạnh lùng
Chém cha cái kiếp lấy chồng chung!”
Câu thơ mở đầu nói thẳng vào sự bất công trong hôn nhân, trong tình cảm “Kẻ đắp chăn bông, kẻ lạnh lùng” thì thật là tài tình. Hình tượng thơ gợi ngay đến chuyện buồng the, chăn gối, hạnh phúc lứa đôi vợ chồng. Và sự bất công giữa vợ cả, vợ lẽ hiện ra như núi đồi và vực thẳm. Kẻ “đắp chăn bông” ấm áp bao nhiêu thì kẻ “nằm suông ngoài nhà” lạnh bấy nhiêu. Mà cái lạnh của thể xác chưa thấm vào đâu với cái lạnh tinh thần, lạnh trong lòng, “lạnh lùng”.
Hồ Xuân Hương đã chửi thẳng vào cái kiếp lẽ mọn, chung chạ:
“Chém cha cái kiếp lẩy chồng chung”
Chửi cả bằng lời và bằng nhạc, câu thơ bảy chữ thì có bốn thanh trắc, dấu sắc (chém, cái, kiếp, lấy) sắc như gươm. Nhưng chửi rồi vẫn còn nguyên nỗi đau, ấy là “cái kiếp lấy chồng chung”. Chung cái không thể nào chung được, có đáng nguyền rủa không? Ca dao cũng đã cự tuyệt cảnh chồng chung:
“Đói lòng nằm gốc cây sung
Chồng một thì lấy chồng chung thì đừng”
Mà sao Xuân Hương là bậc trí giả mà không đủ sáng suốt để hai lần đều lâm vào cảnh “chồng chung”? Đó chính là chỗ đáng thương của người phụ nữ. Vì khao khát hạnh phúc lứa đôi nên biết rằng mình làm lẽ chẳng ra gì nhưng vẫn không “đừng” được.
Nữ sĩ Xuân Hương, nạn nhân của chế độ đa thê đã nói huỵch toẹt những bi thảm trong buồng the của “kiếp lấy chồng chung”:
“Năm thì mười họa hay chăng chớ
Một tháng đôi lần có cũng không”.
Nhà thơ đã dồn hai thành ngữ “năm thì mười họa” và “gặp chăng hay chớ” thành một câu thơ lấp lửng thật hay: “Năm thì mười họa hay chăng chớ”. Câu thơ Đường đã trở thành câu thơ thuần Việt diễn tả sự thưa thớt, họa hoằn của hành vi ái ân giữa chồng với vợ lẽ. Có thể gọi ngôn ngữ Hồ Xuân Hương trong trường hợp này là ngôn ngữ mờ, diễn đạt mờ vì là chuyện khó nói. Vậy mà ai cũng hiểu, tài hoa Xuân Hương chính là ở đấy. Cách đây hơn trăm năm giữa một xã hội khô cứng, đạo đức giả mà có một phụ nữ đã nói to lên khát vọng của da thịt, của ái ân, của yêu đương thì phải nói là Hồ Xuân Hương đã đi trước thời đại rất xa. Có lẽ vì thế mà những thanh niên Pháp ngày nay đọc Hồ Xuân Hương đã cả quyết rằng nàng thơ đang sống cùng thời với họ!
Hồ Xuân Hương là người đàn bà có ý thức cá nhân sâu sắc, có bản lĩnh, lịch lãm mà vẫn không thoát khỏi tấn bi kịch “làm lẽ”? Có lẽ tấn bi kịch này không thuộc về phần ý thức, bản lĩnh, hay trí tuệ mà thuộc vào điều sâu thẳm trong tâm hồn của người đàn bà, mà Xuân Hương lại đàn bà hơn bất kì người đàn bà nào trên cõi đời này. Hãy lắng nghe nhịp tim đau đớn của người đàn bà đáng thương đáng kính này:
“Cố đấm ăn xôi, xôi lại hẩm
Cầm bằng làm mướn, mướn không công”.
Chỉ có Xuân Hương mới đủ can đảm và đủ tài hoa để vớ một thành ngữ mà lí giải hành vi dẫn đến bi kịch hôn nhân. “Cố đấm ăn xôi, xôi lại hẩm”, từ hành vi vật chất, hiện tượng vật chất, tác giả gợi đến hành vi tinh thần, tâm trạng của một kẻ lẽ mọn. Từ cái mùi “hẩm” đến “buồn nôn” của xôi, nhà thơ đã gợi đến sự hẩm hiu của cảnh “chồng chung”. Cách cụ thể hóa cái trừu tượng như vậy rất gần với thi pháp dân gian. Vì khát vọng một chút hạnh phúc lứa đôi nhỏ nhoi mà người đàn bà phải hạ mình “cố’ đấm ăn xôi”, nhưng nhập cuộc rồi, người vợ lẽ mới nhận ra bản chất xấu xa của chế độ đa thê:
“Cầm bằng làm mướn, mướn không công”.
Vợ lẽ chẳng qua là một người “làm mướn”, một người ở, mà còn tệ hơn người làm mướn là “mướn không công”. Thật là hẩm hiu, tủi nhục. Những điệp từ “xôi, xôi”, “mướn, mướn” tạo ra âm điệu day dứt, đay nghiến, uất hận của kiếp làm lẽ.
Bài thơ kết thúc bằng lời tự nhủ chua chát:
“Thân này ví biết dường này nhỉ
Thà trước thôi đành ở vậy xong”.
Đây là một cách nhận thức lại, không hình ảnh, không bóng bẩy, chỉ phô diễn trực tiếp ý tưởng của một đời làm lẽ. Người đàn bà thuộc vào hàng trí giả như Xuân Hương cũng không thể hình dung hết những điều cay nghiệt của “kiếp lấy chồng chung”. Bà ngậm ngùi mà nghĩ rằng “Thà trước thôi đành ở vậy xong”. Người đàn bà với thiên chức làm vợ, làm mẹ mà “ở vậy” là bi thảm nhất, vậy mà làm lẽ lại còn bi thảm hơn. Thế mới càng thấy “kiếp lấy chồng chung” cay nghiệt đến chừng nào!
Bài thơ “Làm lẽ” hay ở tình cảm chân thành, nồng nàn, tư tưởng sâu sắc, tinh thần phản kháng quyết liệt. Nghệ thuật diễn đạt tài tình, những điều khó nói của “kiếp lấy chồng chung” nhà thơ đã nói một cách thanh tao, gợi cảm. Những thành ngữ tiếng Việt đã chắp cánh cho thơ Xuân Hương, thuần hóa thơ Đường thành một hình thức thơ giàu âm điệu dân tộc.
<iframe class="ql-video ql-align-center" frameborder="0" allowfullscreen="true"></iframe>Với bài thơ “Làm lẽ”, chế độ đa thê của xã hội phong kiến đã bị một đòn trí mạng. Để nói lên những bất công trong chế độ đa thê, để đòi quyền sông, quyền hạnh phúc lứa đôi, Hồ Xuân Hương đã phải trả giá cả cuộc đời của mình. Cho nên càng nghĩ càng cảm thấy yêu mến, kính nể Hồ Xuân Hương, người đàn bà kì bí, “Bà Chúa Thơ Nôm” trong nền văn học của nước nhà.
Nếu bạn muốn hỏi bài tập
Các câu hỏi của bạn luôn được giải đáp dưới 10 phút
CÂU HỎI LIÊN QUAN
Top thành viên trả lời