Nguyễn Khoa Điềm thuộc thế hệ những nhà thơ trẻ trưởng thành trong kháng chiến chống Mĩ. Trong những năm kháng chiến chống Mĩ, Nguyễn Khoa Điềm đã gắn bó máu thịt với mảnh đất quê hương. Thơ của ông thời đánh Mĩ cũng thường viết về cuộc sống, chiến đấu của con người trên vùng đất Huế. Người đọc yêu thơ của Nguyễn Khoa Điềm bởi những xúc cảm dồn nén, những suy tư sâu sắc về dân tộc và thời đại. Tác phẩm chính của Nguyễn Khoa Điềm: Đất ngoại ô (thơ, 1972), Mặt đường khát vọng (trường ca, 1974), Ngôi nhà có ngọn lửa ấm (thơ, 1986), Cõi lặng (thơ, 2007). Đoạn trích Đất Nước thuộc phần đầu chương V của trường ca Mặt đường khát vọng, là một trong những tác phẩm tiêu biểu nhất của Nguyễn Khoa Điềm viết về chủ đề Đất nước.
Mặt đường khát vọng là trường ca độc đáo của Nguyễn Khoa Điềm, ra đời trong chiến tranh ác liệt thời chống Mĩ, tại chiến trường Trị - Thiên - một điểm nóng - trên chiến trường miền Nam vào năm 1971. Trường ca được viết bằng thể thơ tự do, mang đậm tính dân tộc. Với 15 chương, đoạn trích Đất Nước thuộc phần đầu chương V của trường ca.
Trong đoạn trích này, tư tưởng bao trùm là tư tưởng "Đất nước của nhân dân", đất nước của ca dao thần thoại. Tư tưởng đó đã chi phối hàng loạt các hình tượng nghệ thuật cụ thể như: hình tượng về địa lí, hình tượng về lịch sử, hình tượng về văn hoá. Và tất cả những hình tượng ấy đã góp phần thể hiện hình tượng trung tâm: hình tượng về nhân dân.
Trước hết ta thấy hình tượng về địa lí. Địa lí của đất nước không phải là những to lớn, vĩ đại, những núi sông, trời biển mênh mông mà chỉ đơn sơ, bình dị, gần gũi:
Cái kèo cái cột thành tên
Hạt gạo phải một nắng hai sương xay, giã, giần, sàng
Nơi khắc nghiệt nhất lại là nơi khởi nguồn của sự sống:
Đất Tổ Tom là nơi Cha đẻ bước sang Mẹ ôm
Địa lí của đất nước còn là những nơi đã in dấu chân của cha ông ta trong công cuộc dựng nước và giữ nước:
Những người vợ nhớ chồng còn góp cho Đất Nước những núi Vọng Phu
Cặp vợ chồng yêu nhau góp nên hòn Trống Mái
Gót ngựa của Thánh Gióng đi qua còn trăm ao đầm để lại
Chín mươi chín con voi góp mình dựng đất tổ Hùng Vương
Những con rồng nằm im góp dòng sông xanh thẳm
Người học trò nghèo giúp cho Đất Nước mình núi Bút non Nghiên.
Con cóc, con gà quê hương cùng góp cho Hạ Long thành thắng cảnh
Những người dân nào đã góp tên Ông Đốc, Ông Trang, Bà Đen, Bà Điểm
Và địa lí của đất nước còn là những con đường đánh giặc:
Xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước
Mà lòng phơi phới dậy tương lai.
Đó là những địa danh, những cảnh vật thiên nhiên, là núi sông, bờ cõi mà nhân dân ta từ xưa tới nay vẫn luôn yêu quý, tự hào và sẵn sàng chiến đấu, hi sinh để bảo vệ.
Hình tượng thứ hai là hình tượng về lịch sử. Lịch sử của đất nước không phải là những triều đại, những anh hùng nổi tiếng mà là lịch sử của biết bao lớp người đông đảo, bình dị mà kiên cường, bất khuất:
Năm tháng nào cũng người người lớp lớp
Con gái, con trai bằng tuổi chúng ta
Cần cù làm lụng
Khi có giặc người con trai ra trận
Người con gái trở về nuôi cái cùng con
Ngày giặc đến nhà thì đàn bà cũng đánh.
Lịch sử của đất nước còn là lịch sử của những đau thương mất mát:
Bốn nghìn năm dằng dặc buồn đau/ Chén đắng cay đã uống cạn rồi.
Lịch sử của đất nước còn là lịch sử của quá trình lao động dựng xây đất nước:
Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn.
Hạt gạo phải một nắng hai sương xay, giã, giần, sàng
Đất nước có từ ngày đó.
Lịch sử của đất nước còn là lịch sử của những mối tình chung thuỷ:
Ôi những dòng sông bắt nước từ đâu
Mà khi về Đất Nước mình thì bắt lên câu hát
Người đến hát khi chèo đò, kéo thuyền vượt thác
Gợi trăm màu trên trăm dáng sông xuôi.
Hình tượng cuối cùng là hình tượng về văn hoá. Văn hoá của đất nước trước hết là nền văn hoá mở, đón nhận tinh hoa văn hoá của nước ngoài để không ngừng phát triển:
Trong bốn nghìn năm lớp người giống ta lứa tuổi
Họ đã sống và chết
Giản dị và bình tâm
Không ai nhớ mặt đặt tên
Nhưng họ đã làm ra Đất Nước.
Văn hoá của đất nước còn là nền văn hoá giữ gìn những giá trị truyền thống tốt đẹp:
Dạy anh biết "yêu em từ thuở trong nôi"
Biết quý công cầm vàng những ngày lặn lội
Biết trồng tre đợi ngày thành gậy
Đi trả thù mà không sợ dài lâu.
Đó còn là nền văn hoá với những phong tục tập quán đặc sắc:
Ôi những cánh đồng quê chảy máu
Dây thép gai đâm nát trời chiều
Những đêm dài hành quân nung nấu
Bỗng bồn chồn nhớ mắt người yêu.
Từ những hình tượng trên, Nguyễn Khoa Điềm đã khái quát:
Đất Nước có từ ngày đó
"Ngày đó" là ngày nào ta không rõ nhưng chắc chắn "ngày đó" là ngày ta có truyền thống, có lịch sử, có văn hoá. Như vậy, Nguyễn Khoa Điềm đã đưa ra một định nghĩa mới mẻ về Đất Nước: Đất nước của nhân dân. Đây là cách nhìn vừa sâu sắc vừa mới lạ. Sâu sắc vì từ một khái niệm trừu tượng, vốn được cảm nhận qua các yếu tố địa lí, lịch sử, văn hoá, giờ đây đất nước lại được cảm nhận qua những con người bình dị, gần gũi, quen thuộc quanh ta. Mới lạ vì trước Nguyễn Khoa Điềm, ít ai có cách cảm nhận như thế về đất nước.
Để làm sáng tỏ tư tưởng cốt lõi: Đất nước của nhân dân, Nguyễn Khoa Điềm đã sử dụng một hệ thống hình tượng và nghệ thuật độc đáo. Trước hết là hệ thống hình tượng. Đó là hình tượng về địa lí, về lịch sử, về văn hoá. Tất cả những hình tượng đó đều là sự cụ thể hoá khái niệm đất nước. Bên cạnh đó, Nguyễn Khoa Điềm còn sử dụng một hệ thống nghệ thuật phong phú, đa dạng: chất liệu văn hoá dân gian từ ca dao, tục ngữ, dân ca đến phong tục tập quán, truyện cổ, truyền thuyết; giọng điệu tâm tình thủ thỉ; ngôn ngữ mộc mạc, giản dị; cấu trúc song hành, đối xứng.
Với tư tưởng "Đất nước của nhân dân" và những hình tượng, nghệ thuật độc đáo, Nguyễn Khoa Điềm đã đem đến cho người đọc những cảm nhận mới mẻ về đất nước. Cùng với các bài thơ Đất nước của Nguyễn Đình Thi, Tre Việt Nam của Nguyễn Duy, Khúc hát ru những em bé lớn trên lưng mẹ của Nguyễn Khoa Điềm, trường ca Mặt đường khát vọng xứng đáng là những khúc ca bất hủ về đất nước.
Qua đoạn trích Đất Nước, Nguyễn Khoa Điềm đã thể hiện lòng biết ơn sâu sắc đối với nhân dân - những con người vô danh đã góp phần tạo nên đất nước, đồng thời thức tỉnh ý thức, tinh thần dân tộc, sự kết nối giữa cá nhân với cộng đồng trong thời kì chống Mĩ cứu nước. Đồng thời đoạn trích cũng thể hiện những đóng góp quan trọng của Nguyễn Khoa Điềm vào nền thơ ca kháng chiến chống Mĩ nói riêng và nền thơ Việt Nam nói chung.