Chiếc thuyền ngoài xa được in trong tập Bến quê (1985), gồm 7 phần. Truyện ngắn này ra đời trong hoàn cảnh đặc biệt. Đó là thời kì đầu của công cuộc đổi mới (giai đoạn 1980-1986). Trước đó, Nguyễn Minh Châu vẫn được nhắc đến như một nhà văn tiêu biểu cho cảm hứng sử thi lãng mạn trong những năm chiến tranh. Nhưng với Chiếc thuyền ngoài xa và nhiều tác phẩm khác như Người đàn bà trên chuyến tàu tốc hành, Hương và Phai, Bức tranh, Khách ở quê ra,... Nguyễn Minh Châu đã trở thành "nhà văn mở đường tài hoa và tinh anh nhất". Ông đã vào đời sống, khám phá con người trong những mối quan hệ phức tạp, đa chiều để phát hiện những giá trị và bản chất của nó. Không còn là nhân vật chính diện đơn giản, một chiều mà con người có ánh sáng và bóng tối, có thiện và ác ở bên trong.
Truyện ngắn Chiếc thuyền ngoài xa in đậm phong cách tự sự triết lí của Nguyễn Minh Châu. Tác giả đặt ra nhiều vấn đề bức thiết của đời sống, đòi hỏi mỗi người cần có suy nghĩ sâu sắc, thấu đáo.
Câu chuyện kể về việc nghệ sĩ nhiếp ảnh Phùng đi tới vùng biên này mong tìm được một bức ảnh cho bộ lịch. Sau gần một tuần tìm kiếm, cuối cùng anh cũng phát hiện được một cảnh đắt trời cho "Trước mắt tôi là một bức tranh mực tàu của danh họa Lê-ô-na-rơđô da Vinci...có cái gì khiến lòng người rộn rạo."
Nhưng vừa như phát hiện thêm đằng sau vẻ đẹp toàn bích kia lại ẩn hiện một bức tranh khác khiến trái tim Phùng không khỏi băn khoăn, trăn trở.
Đó là cảnh một người đàn ông hàng chài thô lỗ, dã man đánh vợ mình bằng chiếc thắt lưng thật lực. Nhưng người vợ không hề chống cự, trốn chạy mà coi như đó là việc đương nhiên.
Với tấm lòng của người nghệ sĩ chân chính, Phùng từ chối không chụp bức ảnh vì sợ mình sẽ làm tổn thương vẻ đẹp của thiên nhiên. Anh nhận thấy rằng nghệ thuật phải gắn liền với cuộc sống, không thể tách rời cuộc sống. Nếu chỉ chăm chút cho nghệ thuật thì vô tình nghệ sĩ ấy đã biến mình thành kẻ vô tâm trước nỗi đau của con người.
Sau khi chứng kiến câu chuyện đầy bất bình của người đàn bà làng chài, thái độ của Phùng đã thay đổi hẳn. Từ ngạc nhiên đến sốc, rồi phẫn nộ.
Phùng ném chiếc máy ảnh xuống đất chạy nhào tới. Nhưng bác Lí đã nhanh hơn giữ chàng lại. Và chẳng ai hiểu tại sao anh lại phũ phàng đến như thế!
Người đàn bà thất học, quê mùa bỗng dưng lại được mọi người chú ý. Chị bị hỏi han đủ thứ. Ban đầu chị tỏ ra lúng túng, sợ sệt nhưng sau đó chị tự tin lên rất nhiều lần. Khi nghe chánh án Đẩu nói những câu mang tính giáo điều, chị gạt phắt đi và nói: "Quý tòa bắt tội con cũng được, phạt tù con cũng được, đừng bắt con bỏ nó..."
Chị yêu chồng, yêu con và sẵn sàng hi sinh tất cả vì họ. Tình mẫu tử ở chị thật cao cả, đáng quý. Dù bị chồng đánh đập, hành hạ nhưng chị vẫn cam chịu, nhẫn nhục. Đối với hàng xóm chị luôn lễ phép, hiền lành. Cuộc sống gia đình không hạnh phúc nhưng chị vẫn cố gắng vun vén, gìn giữ.
Đằng sau sự nhẫn nhục của người đàn bà hàng chài là gì? Phải chăng là sự thấu hiểu lẽ đời, là đức hi sinh của người phụ nữ từng trải, yêu con, yêu chồng?
Còn đối với Phùng và Đẩu, hai người đại diện cho tầng lớp trí thức xã hội chủ nghĩa lúc bấy giờ thì lại cho rằng đánh vợ là phạm pháp, là tội nặng. Họ muốn giúp đỡ người đàn bà thoát khỏi cảnh bạo lực gia đình.
Tuy nhiên, giữa họ và người đàn bà hàng chài lại có những bất đồng khó giải quyết. Một bên muốn cứu người phụ nữ khỏi cảnh khổ cực, một bên lại không dám rời xa vì gia đình là nơi duy nhất họ có thể nương tựa.
Cuộc sống vốn dĩ không hề màu hồng, cũng không chỉ toàn nghiệt ngã. Để vươn tới hạnh phúc, con người ta phải trang bị cho mình những tri thức cần thiết. Có tri thức, chúng ta sẽ phân biệt được đúng sai, tốt xấu và dần hoàn thiện bản thân theo hướng tích cực hơn.