* Giới thiệu chung về hai bài thơ Việt Bắc (Tố Hữu), Sóng (Xuân Quỳnh), về hai đoạn thơ được trích dẫn
- Việt Bắc ghi nhận một đỉnh cao trong sự nghiệp thơ ca của Tố Hữu, tiêu biểu cho phong cách nghệ thuật của một ngọn cờ đầu trong nền thơ ca cách mạng Việt Nam. Bài thơ ra đời ở một bước ngoặt đáng nhớ của lịch sử dân tộc (tháng 10 năm 1954), trở thành bản anh hùng ca về Cách mạng và Kháng chiến, bản tình ca về đời sống tâm hồn, tình cảm phong phú, cao đẹp của con người Việt Nam.
- Sóng được Xuân Quỳnh sáng tác vào cuối năm 1967, trong chuyến đi thực tế ở vùng biền Diêm Điền (Thái Bình). Tiếp nối một đề tài, sử dụng một tứ thơ đã trở thành quen thuộc nhưng Sóng mang theo nhịp đập của một trái tim chân thành, tha thiết, thể hiện những trăn trở, khát vọng trong tình yêu thật riêng của Xuân Quỳnh.
- Hai đoạn thơ đều diễn tả nỗi nhớ tha thiết của những tâm hồn giàu cảm xúc, giàu ân nghĩa.
* Phân tích nỗi nhớ được thể hiện trong đoạn thơ của bài Việt Bắc
- Đoạn thơ mang giọng điệu độc thoại nội tâm. Nhập vai vào người cán bộ sắp về xuôi, Tố Hữu như tự nhìn vào lòng mình, cất tiếng họ̉i mình để diễn tả nỗi nhớ nôn nao lạ thường. Nhớ nghĩa tình cách mạng, nghĩa tình kháng chiến mà như nhớ người yêu vậy. Qua so sánh này, cái chung đã tự nhiên thành cái riêng, những tình cảm cộng đồng đã tự nhiên thành cảm xúc của riêng tư, của lứa đôi...
- Nhớ những cảnh vật, những vẻ đẹp thật riêng của núi rừng Việt Bắc (Trăng lên đầu núi, nắng chiều lưng nương).
- Những vẻ đẹp của cảnh, của người Việt Bắc hiện lên thật sinh động, cụ thể qua điệp từ "nhớ từng" đứng đầu các câu thơ lục bát. Nếu không sống thật sâu với kỉ niệm, không yêu Việt Bắc nồng nàn thì không thể "nhớ từng" như thế.
- Vẻ đẹp mờ ảo, thấp thoáng của những bản làng Việt Bắc qua màn khói, làn sương... Hình ảnh bếp lửa toát lên sự nồng hậu, cuộc sống gia đình ấm áp. Bếp lửa càng thân thương, càng đáng nhớ khi gắn với bóng dáng "người thương đi về". Phải chăng đó là hình ảnh những bà mẹ, những người chị, người em gái - những người phụ nữ sớm hôm tần tảo nhen nhóm và giữ yên bếp lửa.
- Từng rừng nứa bờ tre, từng con ngòi, dòng sông, ngọn suối Việt Bắc đều in dấu kỉ niệm của "mình" và "ta" trong "mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng". Suối Lê có khi vơi khi đầy, cuộc sống có lúc gian nan, mất mát, có lúc vui tươi, thắng lợi nhưng nghĩa tình bao giờ cũng đầy ăm ắp.
- Câu thơ cuối đoạn mang dáng dấp tổng kết, nhìn suốt lại "những ngày"... "Mình đây ta đó" luôn sóng đôi, luôn sẻ chia cả "đắng cay" lẫn "ngọt bùi".
* Phân tích nỗi nhớ được diễn tả trong đoạn thơ của bài Sóng
- Một nỗi nhớ cứ thường trực trong lòng. Xuân Quỳnh đã mượn đặc điểm của sóng để diễn tả nỗi nhớ trong tình yêu. Bằng cách diễn đạt qua đối sánh, Xuân Quỳnh đã mở rộng các dạng thức, các không gian tồn tại của sóng (Con sóng dưới lòng sâu/Con sóng trên mặt nước). Ở dạng thức nào, ở không gian nào, sóng cũng nhớ bờ, cũng tìm về với bờ. Cũng vậy, dù ở đâu, dù lúc nào, lòng em cũng nhớ về anh. Sóng cứ thao thức "ngày đêm không ngủ được" thì lòng em cũng chẳng lúc nào yên bởi nỗi nhớ xốn xang, ám ảnh.
- Nỗi nhớ được diễn tả thật độc đáo: Lòng em nhớ đến anh/Cả trong mơ còn thức. Lúc thức nhớ. Cả trong mơ em cũng nhớ. Hình ảnh anh trong giấc mơ em cứ rõ ràng y như lúc thức vậy. Một nỗi nhớ bao trùm khắp không gian, xuyên suốt thời gian, tràn ngập cả tâm hồn...
* Tổng hợp về sự giống nhau, điểm khác nhau của hai đoạn thơ
- Đều diễn tả chân thực nỗi nhớ da diết lạ thường, đều giàu cảm xúc, giàu hình ảnh.
- Nỗi nhớ trong Việt Bắc thiên về hoài niệm, nặng ân tình. Qua nhớ, Tố Hữu đã tái hiện những vẻ đẹp thật riêng của cảnh và người Việt Bắc trong Cách mạng, trong Kháng chiến. Những tình cảm chung của cộng đồng được chuyển hoá tự nhiên thành tình cảm lứa đôi, cảm xúc tình yêu. Đoạn thơ thể hiện sở trường trữ tình hoá những vấn đề chính trị một cách khéo léo, nhuần nhuyễn của ngòi bút thơ Tố Hữu.
- Nỗi nhớ trong Sóng toát lên sự hiện hữu, cái hiện tại và trực tiếp đó là câu chuyện của tình yêu lứa đôi. Nỗi nhớ trong tình yêu của người phụ nữ được Xuân Quỳnh gửi gắm qua các tương đồng với sóng ngoài đại dương. Sự hoà khớp giữa hai phía này (lòng em - sóng biển) đã tạo nên sức lay động, sức thuyết phục của cảm xúc, của hình ảnh thơ.