Phân tích bài Bàn luận về phép học của La Sơn Phu Tử Nguyễn Thiếp.

thumb up 0
thumb down
Trả lời câu hỏi của haidang06
  • Câu trả lời phải chính xác, đầy đủ dựa trên kiến thức xác thực:
    • ✔ Đối với câu hỏi trắc nghiệm: Đưa đáp án lựa chọn + giải thích lý do chọn đáp án.
    • ✔ Đối với câu hỏi tự luận: Đưa lời giải và đáp án cho câu hỏi.
    • ✔ Đối với câu hỏi trả lời ngắn: Đưa ra đáp án + giải thích lý do.
    • ✔ Chấp nhận sử dụng ảnh do thành viên viết tay, ảnh cần rõ nét, không bị mờ, vỡ ảnh.
  • Sử dụng ngôn ngữ rõ ràng, dễ hiểu.
  • Tránh đưa ra các ý kiến cá nhân mang tính chất chủ quan.
  • Nếu sử dụng thông tin từ nguồn khác, phải trích dẫn nguồn đầy đủ và chính xác.
  • Tuyệt đối không được sao chép các thông tin từ các trang khác, từ AI hoặc chatGPT.
CÂU TRẢ LỜI
avatar
Timi

16/03/2023

Trợ lý học tập AI - Câu trả lời này chỉ mang tính tham khảo
Nguyễn Thiếp (1723 - 1804) tên chữ là Khải Xuyên, hiệu là Lạp Phong Cư Sĩ, được người đương thời gọi một cách kính trọng là La Sơn Phu Tử, quê ở làng Mật Thôn, xã Nguyệt Ao, huyện La Sơn, tỉnh Hà Tĩnh. Ông là người “thiên tư sáng suốt, học rộng hiểu sâu”, từng đỗ đạt và ra làm quan dưới triều Lê, nhưng sau đó vì bất bình nên cáo quan về nhà dạy học.
Sau khi lên ngôi vua, Nguyễn Huệ mấy lần viết thư, tha thiết mời Nguyễn Thiếp ra hợp tác với triều Tây Sơn nhưng vì nhiều lý do, ông chưa nhận lời. Ngày 10 tháng 7 niên hiệu Quang Trung năm thứ tư (1791), nhà vua lại viết chiếu thư mời Nguyễn Thiếp vào Phú Xuân hội kiến vì quốc sự có nhiều điều cần bàn nghị. Lần này, La Sơn Phu Tử bằng lòng. Ông làm bài tấu nêu ý kiến của mình về ba việc lớn mà bậc quân vương nên làm. Một là bàn về Quân đức (đạo đức của vua): Mong bậc đế vương một lòng tự đức, lấy sự học vấn mà
tăng thêm tài, bởi sự học mà có đức. Hai là bàn về Dân tâm (lòng dân): Dân là gốc, gốc vững, nước mới yên. Ba là bàn về Học pháp (phép học). Đoạn trích này là phần thứ ba của bài tấu, nội dung bàn luận về phương pháp học tập. Qua bài tấu dâng lên vua Quang Trung, Nguyễn Thiếp bày tỏ sự quan tâm và chủ kiến của mình về việc chấn chỉnh sự nghiệp giáo dục của quốc gia.
Trước hết, chúng ta nên hiểu sơ qua về thể loại tấu. Tấu là một loại văn bản của quan lại hoặc của thần dân trình lên vua chúa để trình bày một ý kiến, đề nghị nào đó có liên quan đến chính sách cai trị hoặc các vấn đề quan trọng của triều đình, quốc gia. Cùng dạng với loại văn bản này còn có nghị, biểu, khải, sớ... Tấu có thể được viết bằng chữ Hán hoặc chữ Nôm, theo hình thức văn xuôi hay văn biền ngẫu.
Ổ bài tấu này, Nguyễn Thiếp trình bày quan điểm về phép học qua hai luận cứ: Bàn về mục đích của việc học và tác dụng của phép học.
Trong phần mở đầu, La Sơn Phu Tử Nguyễn Thiếp nêu mục đích quan trọng của việc học bằng cách so sánh việc dạy người cũng giống như việc mài đá thành ngọc: Ngọc không mài, không thành đồ vật; người không học, không biết rõ đạo. Ông khẳng định chỉ có học tập thì con người mới trở nên hoàn thiện, tốt đẹp. Học tập là một quy luật tất yếu trong cuộc sống. Kẻ đi học là học luân thường đạo lý để làm người. Vậy đạo là gì? Tác giả giải thích: Đạo là lẽ đối xử hằng ngày giữa mọi người. Kẻ đi học là học điều ấy. Đạo học ngày trước lấy mục đích rèn luyện đạo đức nhân cách là chính. Đó là đạo tam cương (tức là học để hiểu và giữ đúng quan hệ vua tôi, cha con, vợ chồng); đạo ngũ thường (tức là học để hiểu và để sống theo năm đức tính của con người: nhân, nghĩa, lễ, trí, tín). Nói cụ thể ra thì lẽ đối xử’chính là mối quan hệ giao tiếp giữa người với người, giữa cá nhân với cộng đồng. Chính vì thế, Nguyễn Thiếp nhấn mạnh rằng tất cả những điều cần thiết trong cuộc sống đều phải học. Con người không được giáo dục cũng giống như ngọc không mài không sáng: Ngọc bất trác, bất thành khí.
Tác giả đã dùng câu châm ngôn dễ hiểu để tăng thêm sức mạnh thuyết phục của lí lẽ. Khái niệm đạo vốn trừu tượng, khó hiểu được tác giả giải thích thật ngắn gọn, rõ ràng. Như vậy, mục đích tối thượng của việc học là để làm người.

Quan điểm lấy đề cao mục đích giáo dục đạo đức của việc học. Khẩu hiệu Tiên học lễ, hậu học văn trong nhà trường hôm nay cũng là sự tiếp nối và phát huy mục đích ấy. Điểm cần bổ sung thêm là việc học không chỉ rèn luyện đạo đức mà còn rèn luyện năng lực trí tuệ để con người có sức mạnh xây dựng, cải tạo xã hội trên mọi lĩnh vực văn hoá, kinh tế, khoa học kĩ thuật...
Tác giả lấy mục đích cao cả của việc học để soi chiếu vào thực tế; từ đó phê phán những biểu hiện lệch lạc, sai trái trong đường lối giáo dục đương thời đã gây ra những tác hại to lớn cho quốc gia, dân tộc:
Nước Việt ta, từ khi lập quốc đến giờ, nền chính học đã bị thất truyền. Người ta đua nhau lối học hình thức hòng cầu danh lợi, không còn biết đến tam cương, ngũ thường. Chúa tầm thường, thần nịnh hót. Nước mất, nhà tan đều do những điều tệ hại ấy.
Vậy thế nào là lối học hình thức hòng cầu danh lợi ? Đó là lối học theo kiểu tầm chương trích cú, thuộc lòng từng câu từng chữ mà không hiểu kĩ về nội dung, học theo kiểu hữu danh vô thực. Học chỉ để đi thi, để ra làm quan, được trọng vọng, nhàn nhã và thu nhiều bổng lộc...
Những kẻ học hành như vậy, nếu có ra làm quan thì cũng chỉ là những viên quan dốt nát, hỏi làm sao có thể lo đời giúp nước? Tác hại của lối học lệch lạc, sai trái đó gây tác hại nghiêm trọng và lâu dài vì những kẻ bất tài thường hay xu nịnh, luồn lọt để được thăng quan tiến chức, dần dần trở thành lũ sâu mọt, chỉ biết vinh thân phì gia mà quên đi lợi ích chung của đất nước, dân tộc.
Ngày nay, chúng ta gọi lối học đó là học vẹt, học để đối phó, thực chất chẳng tiếp thu được bao nhiêu kiến thức. Thuộc bài là yếu tố rất cần trong học tập nhưng điều cốt yếu là phải hiểu nội dung, bản chất của vấn đề, từ đó có cách suy nghĩ, cách cảm nhận, sáng tạo riêng.
Sau khi phê phán những biểu hiện tiêu cực trong nhận thức về việc học, Nguyễn Thiếp đã nêu ra .quan điểm và phương pháp học tập đúng đắn.
Theo ông, trước tiên việc học phải được phổ biến rộng rãi. Triều đình nên cho dựng thêm trường lớp ở khắp nơi, khuyến khích và tạo điều kiện thuận lợi cho mọi người học tập:
Củi xin từ nay ban chiếu thư cho thầy trò trường học của phủ, huyện, các trường tư, con cháu các nhà văn võ, thuộc lại ở các trấn cựu triều, đều tuỳ đâu tiện đấy mà đi học.

Nguyễn Thiếp quả là một bậc hiền tài có tầm nhìn xa trông rộng. Quan điểm hết sức tiến bộ của ông tuy nêu ra cách đây đã hai thế kỉ nhưng nó rất gần gũi với chủ trương xã hội hoá giáo dục của Đảng và Nhà nước ta hiện nay. Chúng ta đang áp dụng ý tưởng sáng suốt của ông vào thực tế giáo dục.
Theo Nguyễn Thiếp, việc học phải được bắt đầu từ những kiến thức có tính chất nền tảng. Học từ dễ đến khó. Khi học bài, người học phải biết tóm tắt nội dung để dễ nhớ, dễ thuộc, bây giờ ta gọi là làm dàn bài và củng cố kiến thức:
Phép dạy, nhất định theo Chu Tử. Lúc đầu học tiểu học để bồi lấy gốc. Tuần tự tiến lên học đến tứ thư, ngũ kinh, chư sử. Học rộng rồi tóm lược cho gọn, theo điều học mà làm.
Mục đích của việc học là để trở thành người có đức, có tài, góp phần hữu ích vào sự nghiệp hưng thịnh đất nước. Muốn học tốt thì phải có phương pháp. Sự học cần phải nâng cao, mở rộng không ngừng, cho nên người học phải biết cách học sao cho có hiệu quả; đặc biệt là học phải đi đôi với hành.
Phương pháp học tập đúng đắn là tuần tự học từ thấp đến cao. Học rộng, nghĩ sâu, rồi tóm lược gọn những điều cơ bản, cốt yếu nhất, rồi ghi nhớ và theo điều học mà làm. Như vậy học không chỉ để cho biết mà chủ yếu là để làm theo cho tốt.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã dạy: Học để hành, học với hành phải đi đôi. Học mà không hành thì học vô ích, hành mà không học thì hành không trôi chảy.
Vậy học là gì ? Hành là gì ?
Học là hoạt động tiếp thu tri thức của nhân loại đã được đúc kết qua mấy ngàn năm lịch sử. Chúng ta học ở trường qua sự truyền thụ của thầy cô; học ở bạn bè; tự học qua sách vở và thực tế đời sống. Học để làm giàu tri thức, nâng cao trình độ hiểu biết về nhiều mặt để có thể làm chủ bản thân, làm chủ công việc, góp phần hữu ích vào việc xây dựng sự nghiệp riêng và sự nghiệp chung.
Hành là quá trình vận dụng những kiến thức đã học vào thực tế công việc hằng ngày. Ví dụ như người thầy thuốc đem những kiến thức tiếp thu được trong suốt quá trình học tập sáu, bảy năm trời ở trường Đại học để chữa bệnh cho nhân dân. Những kiến trúc sư, kĩ sư xây dựng thiết kế và thi công bao công trình như nhà máy, bệnh viện, trường học, công viên... để phục vụ đời sống
con người. Người công nhân trong xưởng máy vận dụng lý thuyết và kinh nghiệm để cải tiến kĩ thuật, nâng cao chất lượng sản phẩm. Người nông dân áp dụng hiểu biết khoa học vào trồng trọt chăn nuôi để có được những vụ mùa bội thu trên đồng ruộng. Đó là hành.
Nguyễn Thiếp khẳng định : Học để hành, có nghĩa là học để làm cho tốt. Thực tế cho thấy có học có hơn. ông cha chúng ta ngày xưa đã dạy : Bất học, bất tri lý. (Không học thì không biết đầu là lẽ phải). Có /7 thì mọi công việc sẽ đạt hiệu quả cao hơn, tốt hơn. Nếu được học những lý thuyết cao siêu mà không biết đem ra vận dụng vào thực tế thì việc học ấy chỉ tốn thời gian, công sức, tiền bạc mà chẳng đem lại kết quả gì.
Ngược lại, hành mà không học thì hành không trôi chảy. Nếu ta chỉ làm việc theo thói quen, theo kinh nghiệm mà không có lý thuyết soi sáng thì công việc sẽ tiến triển rất chậm và chất lượng không cao. Cách làm việc đơn thuần ấy chỉ thích hợp với những công việc chân tay giản đơn, không cần nhiều đến trí tuệ. Còn đối với những công việc phức tạp đòi hỏi khoa học, kĩ thuật thì cung cách ấy đã quá lỗi thời. Cho nên muốn đạt hiệu quả tốt trong công việc, chúng ta bắt buộc phải học, phải được đào tạo chính quy theo từng chuyên ngành và sau đó, trong suốt quá trình làm việc vẫn phải học tập không ngừng bằng mọi cách. Có như vậy mới đáp ứng được yêu cầu ngày càng cao của thời đại.
Trong khi đề xuất ý kiến của mình với nhà vua, Nguyễn Thiếp luôn giữ thái độ chân thành, khiêm tốn qua những từ ngữ như cúi xin, xin chớ bỏ qua... đồng thời, ông cũng thể hiện niềm tin của mình vào sự đúng đắn của những điều tấu trình và vào sự chấp thuận của nhà vua.
Cuối cùng, Nguyễn Thiếp khẳng định tác dụng to lớn và lâu đài của việc học:
Hoạ may kẻ nhân tài mới lập được công, nhà nước như thế mà vững yên. Đó mới thực là cái đạo ngày nay có quan hệ tới lòng người. Xin chớ bỏ qua.
Đạo học thành thì người tốt nhiều; người tốt nhiều thì triều đình ngày ngắn mà thiên hạ thịnh trị.
Phương pháp học tập tốt sẽ là cơ sở để đào tạo ra người tài đức. Nhiều người có tài có đức sẽ góp phần không nhỏ vào việc hưng thịnh đất nước.
Phép học chân chính mà thành công thì sẽ không còn lối học hình thức hòng cầu danh lợi cá nhân, không còn hiện tượng chúa tầm thường, thần nịnh-hót.

Nhiều người học giỏi lại có đạo đức tốt, đỗ đạt làm quan sẽ làm cho triều đình ngay ngắn, xã hội trong sạch. Việc cai trị quốc gia của nhà vua sẽ dễ dàng, thuận lợi hơn, nước nhà sẽ vững vàng, bình ổn.
Nếu nói theo cách hiểu hôm nay của chúng ta thì đạo học chân chính sẽ có sức mạnh cải tạo con người, cải tạo xã hội, thúc đẩy sự phát triển của xã hội theo hướng tích cực.
Đằng sau các lí lẽ bàn về tác dụng của phép học, Nguyễn Thiếp đã đề cao tác dụng của phương pháp học tập đúng đắn, tin tưởng ở sự phục hưng của sự nghiệp giáo dục chân chính, kỳ vọng về tương lai tươi sáng của đất nước.
Ý kiến của Nguyễn Thiếp trùng hợp với ý kiến của nhà bác học Lê Quý Đôn: Nhân tài là nguyên khí quốc gia. Đất nước nhiều nhân tài thì chế độ vững mạnh, quốc gia hưng thịnh.
Nguyễn Thiếp nêu rõ mục đích, tác dụng của việc học là để làm người, học để nâng cao hiểu biết và làm việc ngày một tốt hơn; đóng góp được nhiều hơn cho đất nước. Nếu mọi người hiểu được điều đó thì sẽ nhận ra tác hại ghê gớm của lối học hình thức hòng cầu danh lợi.
Nội dung bài Bàn luận về phép học tây nhiên chịu ảnh hưởng của quan điểm giáo dục Nho giáo, song điều chính yếu mà tác giả muốn nhấn mạnh là mục đích, tác dụng của việc học tập chân chính cũng như phương pháp học tập đúng đắn khoa học. Những ý kiến mà Nguyễn Thiếp nêu ra có nhiều điểm tiến bộ, đáng để cho hậu thế noi theo.
Hãy giúp mọi người biết câu trả lời này thế nào?
0/5 (0 đánh giá)
thumb up 0
thumb down
0 bình luận
Bình luận
avatar
level icon
lunadao

16/03/2023

La Sơn Phu Tử Nguyễn Thiếp là danh sĩ nổi tiếng cuối đời Hậu Lê và là một trong những vị khai quốc công thần triều Tây Sơn, người có công rất lớn trong công cuộc đánh đuổi quân Thanh, xây dựng, sửa sang đất nước, chấn hưng nền giáo dục nước nhà lúc bấy giờ. Bàn luận về phép học (Luận học pháp) là bài viết tiêu biểu, phản ánh đầy đủ tài trí, tư tưởng và bản lĩnh của Nguyễn Thiếp.

Khi được hỏi về kế sách trị quốc về lâu dài, tháng 8 năm 1791, Nguyễn Thiếp đã dâng vua Quang Trung bản tấu văn với ba phần gồm: quân đức (đức của vua), dân tâm (lòng dân), và học pháp (phép học). Nội dung chính của ba phần thực ra đều thống nhất ở chỗ, là lời khuyên vua nên tu đức để khiến lòng dân quy thuận, tính kế lâu dài. Trong đó, phần cuối – Luận học pháp (được đưa vào trích giảng trong chương trình Ngữ văn 8) chủ yếu bàn về phép học để thông qua đó, định hướng cả xã hội hướng theo đạo lí Thánh hiền. Đây cũng là đoạn chứa đựng những tư tưởng giáo dục có ý nghĩa chiến lược của La Sơn Phu Tử.

Phần đặt vấn đề của đoạn này ngắn gọn nhưng khái quát được ý nghĩa sâu xa của việc học, bằng cách trích dẫn câu châm ngôn mà lí lẽ của nó được coi là đúng một cách hiển nhiên: “Ngọc không mài, không thành đồ vật; người không học, không biết rõ đạo”. Vai trò và mục đích của việc học là để hiểu đạo lí. Đạo – theo tác giả, “là lẽ đối xử hằng ngày giữa mọi người”. Học để hiểu đạo là học để hiểu lẽ đối xử hằng ngày giữa mọi người. Con người dẫu thông minh, dẫu có “tính bản thiện” nhưng nếu không được học hành cũng như ngọc không được mài.

Tiếp đó, tác giả nêu ra một thực trạng của nền giáo dục đương thời mà bất cứ nhà nho chân chính nào cũng phải đau lòng: “Nước Việt ta từ khi lập quốc đến giờ, nền chính học đã bị thất truyền”. Người học không chú ý học những tri thức mang tính căn cốt mà chỉ “đua nhau lối học hình thức”; không coi trọng mục đích học để hiểu đạo lí mà chỉ để thi cử “hòng cầu danh lợi”. Theo quan niệm của nhà nho xưa, nếu quá coi trọng danh lợi, người ta dễ đánh mất tính thiện của mình, coi trọng danh lợi là phải mưu toan, phải tranh đoạt và tất cả những hiện tượng đó sẽ là nguyên nhân để người ta bất chấp đạo lí. Thế nên, Nguyễn Thiếp cho rằng, vì đua nhau lối học hình thức mà con người “không còn biết đến tam cương, ngũ thường”.

Tam cương là ba mối quan hệ được nhà nho xưa coi là giềng mối, là trụ cột của của gia đình và xã hội; đó là mối quan hệ giữa vua – tôi (quân – thần), cha – con (phụ – tử) và vợ – chồng (phu – thê). Có thể ngày nay ta lí giải khác về nguyên nhân dẫn đến sự ổn định hoặc bất ổn của một xã hội nhưng ở thời Nguyễn Thiếp, các nhà nho chân chính đều tin rằng: nếu trong gia đình, mối quan hệ cha – con, vợ – chồng được duy trì tốt thì gia đình yên ấm; trong xã hội, mối quan hệ vua – tôi được duy trì tốt thì xã hội ổn định kỉ cương. Sự duy trì tốt của Tam cương có liên hệ chặt chẽ với Ngũ thường. Ngũ thường là năm đức tính để con người ta trở nên có đạo, có đức gồm: nhân, nghĩa, lễ, trí, tín. Tam cương là để duy trì phép nước và nếp nhà (quốc pháp, gia quy); ngũ thường là để tu thân, sửa đức. Xã hội thiếu Tam cương thì riềng mối trụ cột lung lay, dễ trở nên loạn lạc; con người thiếu ngũ thường sẽ không biết ứng xử, hành động theo lễ nghĩa, dễ trở nên vô đạo. Bằng ngòi bút phê phán, Nguyễn Thiếp đã chỉ rõ, lối học hình thức, “hòng cầu danh lợi” là mối nguy hại của đất nước: tạo ra một tâm lí chung không coi trọng đạo lí; không coi trọng đạo lí dẫn tới một thực trạng kéo dài “chúa tầm thường, thần nịnh hót”.

Như vậy, khi nêu ra thực trạng này, Nguyễn Thiếp đã chỉ ra, đạo học có liên quan chặt chẽ tới vận nước và theo cách lí giải ấy, ông cho rằng các tập đoàn phong kiến đương thời nhanh chóng sụp đổ khi Tây Sơn nổi lên có nguyên nhân sâu xa từ sự học mà ra. Đánh giá số phận của triều đại trước, ông cho rằng “nước mất nhà tan đều do những điều tệ hại ấy”. Đây cũng là lí do giải thích vì sao La Sơn Phu Tử dù có đỗ cao ở thời Lê mà vẫn lui về dạy học chứ quyết không ra làm quan. Và điều quan trọng hơn cả trong khi nêu thực trạng, Nguyễn Thiếp đã chỉ rõ nguy cơ mất nước nếu việc chạy đua theo lối học chỉ để cầu danh lợi vẫn tồn tại. Đó là lời tấu trình kín đáo với ngụ ý: mong hoàng thượng hãy nhìn vết xe đổ của tiền triều, lấy “việc xưa xem xét, chứng cớ còn ghi” để rút ra bài học trị quốc cho mình.

Từ việc xác định rõ thực trạng giáo dục đương thời, chỉ ra nguy cơ mất nước nếu không xác định trúng mục đích của sự học, Nguyễn Thiếp đã đưa ra những giải pháp có tính toàn diện để mong làm thay đổi căn bản nền giáo dục nước nhà.

Trước tiên – theo tác giả, phải mở rộng quy mô của việc học và đối tượng học. Nguyễn Thiếp đã khẩn thiết “cúi xin từ nay ban chiếu thư cho thầy trò trường học của phủ, huyện, các trường tư, con cháu các nhà văn võ, thuộc lại ở các trấn cựu triều, đều tùy đâu tiện đấy mà đi học”. Ở thời phong kiến, việc học chỉ được tập trung ở kinh kỳ và những địa điểm trung tâm, đối tượng đi học chủ yếu là con em quan lại, quý tộc. Vì thế, giải pháp này nhằm khắc phục sự hạn chế về quy mô và đối tượng học trước đó, tạo điều kiện thuận lợi có ý nghĩa “phổ cập” cho nhiều người được đi học và có thể đi học ở nơi gần nhất.

Sau nữa, tác giả đề xuất giải pháp thay đổi cả nội dung lẫn phương pháp dạy và học. Ông cho rằng: “Phép dạy, nhất định phải theo Chu Tử”. Chu Tử là nhà giáo dục nổi tiếng thời Nam Tống, ông là người đề xướng và kiên trì phương pháp dạy học phải đi tuần tự từ thấp đến cao. Và theo phép dạy ấy Nguyễn Thiếp khuyên rằng, người học “lúc đầu học tiểu học để bồi lấy gốc. Tuần tự tiến lên học đến Tứ thư, Ngũ kinh, Chư sử. Học rộng rồi tóm lược cho gọn, theo điều học mà làm”. Nội dung giáo dục mà La Sơn Phu Tử đề xuất tuy không còn phù hợp với ngày nay nhưng tư tưởng và phương pháp giáo dục này luôn đúng ở mọi thời đại. Ở thời nào, người học muốn có thành tựu đều phải học tuần tự từ thấp đến cao, ở thời nào người học cũng phải cần một khả năng khái quát (học rộng rồi tóm lược cho gọn) và ở bất kỳ thời nào người học cũng phải chú ý nguyên tắc “học đi đôi với hành” (theo điều học mà làm).

Giải pháp thay đổi cách dạy và cách học mà Nguyễn Thiếp đề xuất nhằm hướng đến khắc phục lối học hình thức, khôi phục “nền chính học thất truyền”, chống bệnh học chỉ để cầu danh lợi. Đây cũng là con đường để hướng tới mục đích cao hơn, xa hơn: để cho “kẻ nhân tài mới lập được công, nhà nước nhờ thế mà vững yên”.

Bản tấu văn tuy chỉ bàn về phép học nhưng ở đó có cả những tư tưởng mang tính chiến lược về trị quốc lâu dài: tư tưởng trọng người tài, phù hợp với nội dung Chiếu cầu hiền của vua Quang Trung (Do Ngô Thì Nhậm soạn). “Đó mới thực là cái đạo ngày nay có quan hệ tới lòng người. Xin chớ bỏ qua”. Câu văn này tuy ngắn nhưng chứa đựng biết bao những trăn trở của một trí thức tâm huyết muốn đem tài học giúp đời, là giọng điệu của bề tôi trung muốn đem tâm nguyện để giúp minh quân thu phục được lòng người, là cách ổn định phép nước từ trong gốc rễ bởi chỉ có dùng đạo học trị quốc, lấy chữ nghĩa Thánh hiền để giáo hóa con người, thu phục được nhân tâm, quy nhân tâm về một mối thì thiên hạ mới thái bình. Phải đặt trong hoàn cảnh thời đại Nguyễn Thiếp sống, khi chế độ phong kiến khủng hoảng, chiến tranh liên miên, dân sinh điêu đứng mới thấy cái khát khao một nhà nước “vững yên” tha thiết đến nhường nào. Khát khao ấy được tác giả gửi cả vào bản tấu, gửi cả vào vị vua mà ông tin rằng đó là minh quân, thánh đế – vua Quang Trung.

Ở phần kết tác, giả tóm lược vấn đề bằng một câu văn ngắn gọn và vẫn nói về vai trò của việc học: “Đạo học thành thì người tốt nhiều; người tốt nhiều thì triều đình ngay ngắn mà thiên hạ thịnh trị”. Nếu ở phần nêu thực trạng, tác giả lập luận theo lối nêu phản đề thì ở phần kết là lối nêu chính đề. Phản đề cho rằng, đạo học suy khiến triều đình chỉ có “chúa tầm thường, thần nịnh hót”; chính đề cho rằng khi đạo học thành thì “triều đình ngay ngắn, thiên hạ thịnh trị”. Đó là tư tưởng, là mục đích cốt lõi của việc học.

Luận học pháp nói riêng và toàn bộ bản tấu văn của Nguyễn Thiếp gửi vua Quang Trung là văn bản giàu sức thuyết phục. Sức thuyết phục của bản tấu thể hiện lời lẽ ôn hòa, khiêm cung, dung dị; không dùng nhiều điển tích, điển cố nhưng sâu sắc và hợp tình, hợp lí. Tư tưởng của Nguyễn Thiếp – như đã nói ở trên, không mới nhưng đáng trọng ở chỗ giàu tính nhân văn. Tư tưởng ẩy còn thể hiện tầm nhìn xa, là sự chú trọng đến việc ổn định đất nước lâu dài của một bậc hiền giả và việc nêu ra mối quan hệ giữa giáo dục với sự ổn định, phồn vinh lâu dài của đất nước vẫn luôn là bài học, là tư tưởng không thể bác bỏ.

Hãy giúp mọi người biết câu trả lời này thế nào?
0/5 (0 đánh giá)
thumb up 1
thumb down
0 bình luận
Bình luận

Nếu bạn muốn hỏi bài tập

Các câu hỏi của bạn luôn được giải đáp dưới 10 phút

Ảnh ads

CÂU HỎI LIÊN QUAN

FQA.vn Nền tảng kết nối cộng đồng hỗ trợ giải bài tập học sinh trong khối K12. Sản phẩm được phát triển bởi CÔNG TY TNHH CÔNG NGHỆ GIA ĐÌNH (FTECH CO., LTD)
Điện thoại: 1900636019 Email: info@fqa.vn
location.svg Địa chỉ: Số 21 Ngõ Giếng, Phố Đông Các, Phường Đống Đa, Thành phố Hà Nội, Việt Nam.
Tải ứng dụng FQA
Người chịu trách nhiệm quản lý nội dung: Đào Trường Giang Giấy phép thiết lập MXH số 07/GP-BTTTT do Bộ Thông tin và Truyền thông cấp ngày 05/01/2024
Copyright © 2023 fqa.vn All Rights Reserved