Trần Quốc Tuấn là người có phẩm chất cao đẹp, yêu nước thương dân, một lòng vì quyền lợi quốc gia, dân tộc. Ồng quý người hiền, trọng kẻ sĩ. Trong các cuộc kháng chiến chống quân Nguyên lần thứ hai (1285) và lần thứ ba (1287 - 1288), Trần Quốc Tuấn có công lao rất lớn nên được nhà vua phong chức Hưng Đạo Vương.
Trước cuộc xâm lăng của quân Nguyên - Mông lần thứ hai (1285), tình hình bang giao giữa hai nước rất căng thẳng. Bọn sứ giả trịch thượng, nghênh ngang, yêu sách đủ điều. Thời kỳ hoãn binh không thể kéo dài được nữa, quân dân ta phải chuẩn bị gấp rút cho cuộc chiến đấu một mất một còn. Trần Quốc Tuấn đã soạn ra cuốn Binh thư yếu lược, tóm tắt những điều quan trọng về chiến lược, chiến thuật quân sự. Bài Hịch tướng sĩ có thể coi là phần mở-đầu cho việc phổ biến cuốn sách trên.
Nội dung chính của bài Hịch là nêu Tên những tấm gương xả thân vì nghĩa lớn của người xưa và người đương thời; phân tích rõ tình thế nguy nan của đất nước trước hiểm hoạ xâm lăng và phê phán thái độ cầu an hưởng lạc của một số tướng lĩnh, nhằm mục đích thức tỉnh họ về bổn phận và trách nhiệm cứu nước.
I
Với tư cách là chủ soái, Trần Quốc Tuấn đã lấy tình cảm, tâm huyết của mình để trò chuyện với tướng sĩ, nhằm thuyết phục, động viên họ học tập, rèn luyện, sẵn sàng chiến đấu và chiến thắng. Bài Hịch thể hiện tinh thần yêu nước thiết tha, lòng căm thù giặc sâu sắc và ý chí quyết thắng của vị tướng tài ba.
Mở đầu bài Hịch, tác giả viết: Ta thương nghe... Cách mở đầu như vậy chứng tỏ là ông muốn nói một câu chuyện tâm tình. Chuyện thường nghe, thường học tập, nay đem ra trao đổi, bàn luận với các tướng sĩ dưới quyền để cùng nhau suy ngẫm.
Trần Quốc Tuấn nêu những gương trung thần nghĩa sĩ trong sử sách Trung Quốc đã không tiếc thân mình, kẻ cứu vua, người trả thù cho chủ, kẻ mắng
giặc dữ, người chống giặc mạnh, thậm chí nếu cả những tấm gương của tướng lĩnh nhà Nguyên. Có người từng đặt câu hỏi vì sao tác giả không nêu gương trong sử sách dân tộc mà lại lấy gương của những kẻ xâm lược, cần phải thấy mục đích của đoạn mở đầu này chưa phải là tố cáo địch mà là để khích lệ lòng căm thù, động viên, cổ vũ tinh thần dũng cảm hi sinh, ý chí lập công danh của tướng sĩ ta.
Người xưa quan niệm rằng thứ nhất lập đức, thứ nhì lập công, thứ ba lập ngôn. Vì vậy, lập công danh để lại cho đời đã trở thành lẽ sống của các trang nam nhi thời phong kiến. Hơn nữa, trung quân tức là ái quốc, hi sinh cho vua chúa, cho chủ soái của mình tức là hi sinh cho đất nước. Các tấm gương trong Bắc sử mà tác giả nêu lên đều là những người quên mình cứu vua, cứu chủ, cũng có nghĩa là những trung thần nghĩa sĩ dám bỏ mình vì nước.
Không những thế, khi nêu những gương sáng của tướng lĩnh nhà Tống, nhà Nguyên, Trần Quốc Tuấn ngầm có ý so sánh quan hệ giữa ông đối với tướng lĩnh dưới quyền nào có khác gì quan hệ giữa vương Công Kiên đối với Nguyễn Văn Lập, Cốt Đãi Ngột Lang đối với Xích Tu Tư? Vậy mà một bên thì sẵn sàng hi sinh vì chủ, một bên thì nhìn chủ nhục mà không biết lo, thấy nước nhục mà không biết thẹn. Như vậy, Trần Quốc Tuấn đã buộc các tướng sĩ phải suy nghĩ: gương hi sinh của người ta thì như vậy, còn mình thì sao?
Tác giả nêu một loạt tên tuổi của sáu người đời xưa nổi tiếng rồi dẫn thêm luôn bốn gương thời nay, tất cả đều sẵn sàng bỏ mình vì nước. Họ là những bề tôi bậc thấp mà lòng trung nghĩa sáng ngời, tiếng tốt còn lưu đến ngày nay. Họ không theo thói nữ nhi thường tình, không chịu chết già ở xó cửa mà dám dũng cảm chống lại quân giặc đông gấp trăm lần, dám xông vào chốn lam chướng xa xôi nghìn trùng vì nghĩa lớn.
Trong các gương sáng ấy vừa có những tướng lĩnh cao cấp và các bề tôi thân cận như Kỷ Tín, Do Vu, Dự Nhượng, vừa có cả những người bình thường như Thân Khoái, Kình Đức, Cảo Khanh. Có những gương thời Xuân Thu Chiến Quốc, thời Hán, thời Đường. Để tăng sức thuyết phục, tác giả còn nêu ra những tấm gương rất gần với thời bấy giờ như thời Tống, thời Nguyên. Chủ ý của Trần Quốc Tuấn là lấy gương sáng của người xưa để nói chuyện nay nhằm động viên, khích lệ tướng sĩ sẵn sàng giết giặc, ai cũng có thể lập được công danh, lưu tên trong sử sách cùng trời đất muôn đời bất hủ.
Sau đó, tác giả dẫn dắt mọi người trở về với thực tại là Tổ quốc đang lâm nguy, ồng tâm sự với tướng sĩ bày tỏ sự căm phẫn tột độ của mình trước thái độ ngông nghênh, láo XƯỢC của lũ sứ giả Nguyên - Mông.
Tác giả nêu lên một sự thật đau lòng: Ta cùng các ngươi sinh phải thời loạn lạc, lớn gặp buổi gian nan. Tình hình đất nước hiện nay hiểm nghèo biết mấy! Trần Quốc Tuấn đau lòng khi phải chứng kiến những điều chướng tai gai mắt xảy ra hằng ngày. Sự trâng tráo của kẻ thù được đặc tả qua những hình ảnh ẩn dụ : sứ giặc đi lại nghênh ngang ngoài đường, uốn lưỡi cú diều mà sỉ mắng triều đình, đem thân dê chó mà bắt nạt tể phụ. Cách gọi bọn sứ giả nhà Nguyên là cú diều, dê chó... cho thấy nỗi căm giận và khinh bỉ cao độ của Trần Quốc Tuấn đối với chúng. Đặt những hình ảnh đó trong thế tương phản : lưỡi cú diều mà dám xỉ mắng triều đình, thân dê chó mà dám bắt nạt tể phụ, Trần Quốc Tuấn đã chỉ ra sự xúc phạm không thể tha thứ của lũ sứ giặc và nỗi nhục lớn của triều đình, quốc gia, dân tộc.
Tác giả bóc trần bản chất tham lam và âm mưu thâm độc của đế quốc Nguyên - Mông. Chúng lại giả hiệu Vân Nam vương mà thu bạc vàng, trong khi của kho có hạn mà lòng tham của chúng thì khôn cùng. Nhưng chúng đâu chỉ ham bạc vàng, ngọc lụa? Chúng giả danh mượn đường đi đánh Chiêm Thành, kì thực là muốn cướp nước ta một lần nữa. Trần Quốc Tuấn thừa biết nếu ta đồng ý thì chẳng khác gì đem thịt mà nuôi hổ đói, thế nào rồi cũng gây tai vạ về sau. Cái vạ về sau chính là thảm hoạ mất nước.
Quốc gia, dân tộc đang trong cơn nguy cấp. Loạn lạc và tang tóc đã đến ngay trước mắt. Bao nhiêu tâm huyết của Trần Quốc Tuấn dường như dồn cả vào ngọn bút:
Ta thường tới bữa quên ăn, nửa đêm vỗ gối; ruột đau như cắt, nước mắt đầm đìa; chỉ căm tức chưa xả thịt lột da, nuốt gan nuốt máu quân thù. Dẫu cho trăm thân này phơi ngoài nội cỏ, nghìn xác này gói trong da ngựa, ta cũng vui lòng.
Mỗi chữ, mỗi lời như máu chảy từ trái tim tràn đầy nhiệt huyết của tác giả hiện lên trang giấy. Quên ăn, mất ngủ, đau buồn, căm tức, quyết giết giặc, quyết hy sinh... Cảm xúc nào cũng mạnh mẽ, cao độ. Quân thù ngang nhiên xúc phạm đến quốc thể, đến triều đình, dân tộc, chịu làm sao được?! Ấy vậy mà phải cắn răng nín nhịn để có đủ thời gian chuẩn bị. Cái im lặng ấy là im lặng chất chứa sấm sét, chỉ chờ ngày bùng nổ.
Trần Quốc Tuấn bày tỏ hết tâm trạng đau xót của mình để làm vơi bớt nỗi khổ tâm phải âm thầm chịu nhục trong những ngày qua và để truyền cho tướng lĩnh ngọn lửa nhiệt tình yêu nước. Trước tình cảm chân thành bộc bạch từ gan ruột chủ soái, hỏi người nghe nỡ nào tách mình ra khỏi dòng cảm xúc thiêng liêng ấy?
Đoạn văn chính luận trên đã khắc hoạ sinh động hình tượng người anh hùng yêu nước: đau xót đến quặn lòng trước cảnh tình đất nước, căm thù giặc đến bầm gan tím ruột, mong rửa nhục đến mất ngủ quên ăn, vì nghĩa lớn mà coi thường xương tan, thịt nát. Bản thân Trần Quốc Tuấn đã là một tấm gương yêu nước bất khuất có tác dụng động viên vô cùng to lớn đối với tướng sĩ.
ở đoạn văn thứ ba, chủ soái nghiêm khắc phê phán những sai lầm của một số tướng sĩ dưới quyền. Mối ân tình giữa Trần Quốc Tuấn và tướng sĩ dựa trên hai quan hệ: quan hệ chủ tướng và quan hệ giữa những người cùng cảnh ngộ. Ông lấy quan hệ chủ tướng để khích lệ tinh thần trung quân ái quốc và lấy quan hệ cùng cảnh ngộ để khơi gợi tình cảm ân nghĩa thuỷ chung. Trần Quốc Tuấn đã đánh thức lương tâm, trách nhiệm và nghĩa vụ của tướng sĩ đối với đạo quân thần cũng như đối với tình cốt nhục.
Tuy có sự cách biệt về chức vị, về quan hệ chủ tớ nhưng ông và các tướng sĩ cùng nhau nhận lãnh trách nhiệm chung, cùng nhau gánh vác nhiệm vụ chiến đấu, cùng nhau sống chết, lúc ở nhà nhàn hạ thì cùng nhau vui cười. Tình cảm gắn bó thắm thiết ấy là biểu hiện tốt đẹp của tinh thần phụ tử chi binh. Chủ soái giãi bày tâm can và tự kiểm điểm cách đối xử của mình đối với tướng sĩ như vậy là chí tình chí nghĩa, nhưng xót xa thay trong hàng ngũ tướng sĩ của ông lại có một số người nhìn chủ nhục mà không biết lo, thấy nước nhục mà không biết thẹn.Đáng trách biết chừng nào!
Trần Quốc Tuấn vừa chân tình chỉ bảo, vừa phê phán nghiêm khắc thái độ thờ 0 trước vận mệnh của đất nước bởi đó chính là sự vong ân bội nghĩa trước ân tình sâu đậm của chủ tướng. Ham chơi hưởng lạc đâu chỉ là vấn đề suy thoái nhân cách mà còn là tội ác khi vận mệnh đất nước đang ở thế nghìn cân treo sợi tóc.
Trước hết, ông nhắc đến chuyện không ít tướng lĩnh ham vui chơi. Họ say mê đủ thứ: chọi gà, đánh bạc, vui thú ruộng vườn, quyến luyến vợ' con; lo làm giàu, ham săn bắn; thích rượu-ngon, mê tiếng hát. Mới nghe qua, tưởng là giọng điệu
hài hước, châm biếm nhưng bên trong lại là cái tình rất thật, rất nghiêm. Vị chủ soái đem những thú vui tầm thường đối chiếu với sức mạnh quân địch, để tướng sĩ thấy rõ hậu quả tai hại của nó mà suy ngẫm và tự sửa mình. Sở dĩ Trần Quốc Tuấn phải nhắc nhở là vì họ vui chơi không đúng lúc. Trong tình cảnh nước sôi lửa bỏng của đất nước mà vẫn say mê những thứ đó thì làm sao đủ sáng suốt, tỉnh táo để chống giặc?
Có lúc tác giả không ngần ngại dùng cách nói thẳng, giọng điệu giận dữ gần như xỉ mắng: không biết lo, không biết thẹn, không biết tức, không biết căm. Có lúc dùng cách nói mỉa mai, chế giễu: cựa gà trống không thể đâm thủng áo giáp của giặc, mẹo cờ bạc không thể dùng làm mưu lược nhà binh,... chén rượu ngon không thể làm cho giặc say chết, tiếng hát hay không thể làm cho giặc điếc tai.
Điều đơn giản ấy đến đứa trẻ cũng hiểu, vậy tại sao các tướng lĩnh lại hình như không biết? Phê phán, chỉ trích mạnh như thế là vì Trần Quốc Tuấn muốn động đến lòng tự ái, tự trọng của họ, để thúc đẩy họ mau chóng chứng minh tài năng, phẩm chất của mình bằng những việc làm thiết thực.
Ông chỉ rõ những thú vui ấy tuy nhỏ nhặt, tầm thường nhưng sẽ gây ra nhiều hậu quả tai hại khôn lường. Giặc đến thì ta và các người đều bị bắt, đều mất tất cả những lợi ích thiết thân như thái ấp, bổng lộc, gia quyến... Xã tắc tổ tông bị giày xéo, phần mộ cha mẹ bị quật lên, vợ con bị nạn, thanh danh chẳng còn, nhục để ngàn năm... Đau xót biết chừng nào ! Lúc bấy giờ dẫu muốn vui vẻ phỏng có được không ? Cho nên tốt nhất là các ngươi hãy nghe lời ta, lo huấn luyện quân sĩ, ai nấy đều giỏi, giết được giặc, rửa được thù, giữ cho thái ấp bền vững, bổng lộc đời đời; gia quyến vợ con yên ấm, tông miếu tổ tiên được tế lễ, phụng thờ; danh hiệu, tên tuổi được sử sách lưu thơm...
Đoạn văn thứ tư là lời chủ soái động viên tướng sĩ. Khi động viên họ, Trần Quốc Tuấn đã gắn quyền lợi đất nước với quyền lợi của tướng sĩ. Con người ngoài quyền sống còn có những lợi ích thiết thân, như là ruộng đất, bổng lộc, gia quyến, vợ con, mồ mả tổ tiên, ông bà; tiếng xấu hay tiếng thơm để đời... Nói cách khác, là đời sống vật chất và đời sống tinh thần. Ngoài miếng ăn còn có cả tình cảm, văn hoá, phong tục, có trước mắt, có mai sau, có trách nhiệm với hiện tại và lịch sử muôn đời. Trần Quốc Tuấn nói đến mối tương quan mật thiết giữa lợi ích cá nhân với sự hưng vong của đất nước. Đây không phải là quyền lợi cá nhân ích kỉ mà là quyền lợi thiết thân nhất, thiêng liêng nhất, là nền tảng gần
gũi và vô cùng vững chắc của lòng yêu nước bởi lòng yêu nước sâu xa, thắm thiết luôn bắt nguồn từ tình yêu gia đình, làng xóm, quê hương...
Sau khi phân tích tác hại của việc vui chơi không đúng lúc, Trần Quốc Tuấn còn chỉ ra cho họ những việc nên làm ngay và động viên tướng sĩ hãy làm tròn nhiệm vụ một cách vẻ vang. Đó là nêu cao tinh thần cảnh giác, chăm lo tập dượt cung tên, khiến cho người người giỏi như Bàng Mông, nhà nhà đều là Hậu Nghệ. Những lời khuyên chân thành này đều xuất phát từ mục đích quyết chiến quyết thắng kẻ thù xâm lược.
Để tướng sĩ thêm thấm thìa, Trần Quốc Tuấn nêu bật sự tương phản giữa hai cảnh: để thua giặc thì mất tất cả, thắng giặc thì được tất cả. Khi nêu ra cảnh tượng thất bại, ông sử dụng những từ ngữ mang tính chất phủ định: không còn, cũng mất, bị tan, cũng khốn. Còn nêu cảnh tượng thắng lợi, tác giả dùng những từ ngữ mang tính chất khẳng định mạnh mẽ: mãi mãi vững bền, đời đôi hưởng thụ, không bị mai một, sử sách lưu thơm...
Nghệ thuật sử dụng điệp từ và nghệ thuật tăng tiến có tác dụng làm cho vấn đề được nâng cao dần từ nhạt đến đậm, từ nông đến sâu. Cứ từng bước, từng bước, tác giả giúp tướng sĩ nhận thấy rõ đâu là đúng, sai, phải, trái.
Để nhấn mạnh tinh thần quyết chiến quyết thắng, ở phần cuối bài Hịch, một lần nữa Trần Quốc Tuấn vạch rõ ranh giới giữa hai con đường chính - tà, có nghĩa là hai con đường sống - chết để thuyết phục tướng sĩ. Tác giả biểu lộ quan điểm dứt khoát: hoặc là địch hoặc là ta, không có vị trí chông chênh cho những kẻ thờ ơ trước thời cuộc. Chính thái độ dứt khoát này đã có tác dụng động viên những người còn do dự đứng hẳn sang phía quyết chiến, quyết thắng. Lí lẽ và tình cảm của vị chủ soái đã động viên tới mức cao nhất ý chí và quyết tâm chiến đấu của tướng sĩ dưới quyền.
Cuối cùng, Trần Quốc Tuấn nêu ra mục đích cụ thể của bài Hịch và vạch ra con đường tất yếu mà tướng sĩ phải chọn:
Nếu các ngươi biết chuyên tập sách này, theo lời dạy bảo của ta, thì mới phải đạo thần chủ; nhược bằng khinh bỏ sách này, trái lời dạy bảo của ta, tức là kẻ nghịch thù.
vẫn là giọng điệu tâm tình nhưng nội dung đã là mệnh lệnh nghiêm khắc. Người nghe cảm động vì tình và bị thuyết phục vì lí. Bởi ngoại xâm là kẻ thù
không đội trời chung, nếu ta không lo luyện tập để đánh đuổi chúng thì khác nào quay giáo đầu hàng giặc, như vậy còn gì mà không là nghịch thù ? Còn gì mà không muốn đổi để thẹn, há còn mặt mũi nào đứng trong trời đất nữa ? Bài Hịch chấm dứt bằng một câu tỏ rõ tấm lòng của chủ soái: Ta viết ra bài Hịch này để các ngươi biết bụng ta.
Lập luận trong toàn bài Hịch nói chung và trong từng đoạn văn nói riêng hết sức chặt chẽ, cụ thể, sinh động, có tác dụng đập mạnh, xoáy sâu vào lý trí và tâm hồn người nghe. Nghệ thuật lập luận của Trần Quốc Tuấn là khích lệ nhiều mặt để tập trung vào một hướng : khơi dậy lòng yêu nước, ý chí bất khuất và tinh thần quyết chiến quyết thắng kẻ thù xâm lược.
Có thể thấy được cách triển khai chủ đề của bài Hịch theo một trình tự hợp lí: Khích lệ lòng căm thù giặc, chỉ ra nỗi nhục mất nước, kêu gọi lòng trung quân ái quốc và khơi gợi tình cảm ân nghĩa thuỷ chung, động viên cổ vũ ý chí lập công, xả thân vì nước.
Giọng văn thay đổi linh hoạt: lúc nghiêm khắc trách cứ, lúc thân mật, lúc châm biếm mỉa mai, lức ân cần khuyên nhủ, lúc kêu gọi hào hùng... song trước sau vẫn là lời tâm sự, phân tích phải trái, thiệt hơn của một vị chủ soái có tấm lòng nhân ái, độ lượng và tài đức vẹn toàn.
Hịch tướng sĩ của vị tướng kiệt xuất đã lãnh đạo quân dân ta mấy lần đánh thắng quân Nguyên - Mông xâm lược là đỉnh cao của chủ nghĩa yêu nước, chủ nghĩa anh hùng và xứng đáng là áng thiên cổ hùng văn trong nền văn học nước nhà. Bài Hịch sau khi được tuyên truyền rộng rãi đã trở thành tiếng kèn xung trận, làm cho toàn quân toàn dân ta nức lòng, hăng hái giết giặc. Cùng với khí thế của hội nghị Diên Hồng bừng bừng quyết tâm Sát Thát, bài Hịch đã góp phần quan trọng làm nên chiến thắng lẫy lừng của quân dân nhà Trần, tạo nên hào khí Đông A rực rỡ, lưu danh muôn thuở.