18/06/2023
18/06/2023
Bài thơ được tác giả chia thành 4 đoạn. Đoạn 1 bộc lộ nỗi nhớ những cuộc hành quân gian khổ của đoàn quân Tây Tiến và khung cảnh thiên nhiên miền Tây hùng vĩ, dữ dội, hoang sơ. Đoạn 2 là những kỉ niệm đẹp về tình quân dân trong những đêm liên hoan và cảnh sông nước miền Tây thơ mộng. Đoạn 3 tái hiện lại chân dung người lính Tây Tiến. Đoạn 4 là lời thề gắn bó với Tây Tiến và miền Tây. Toàn bài thơ in đậm dấu ấn tài hoa, lãng mạn, phóng khoáng của hồn thơ Quang Dũng. Với tài năng và tâm hồn ấy, Quang Dũng đã khắc hoạ thành công hình tượng người lính Tây Tiến mang vẻ đẹp lãng mạn, đậm chất bi tráng trên cái nền cảnh thiên nhiên núi rừng miền Tây hùng vĩ, dữ dội, mĩ lệ.
Trong miền kí ức của Quang Dũng không chỉ có những ngày tháng gian khổ với đèo cao, mưa rừng, thú dữ, sương phủ mà còn có cả ánh sáng hội hè của những đêm liên hoan tưng bừng và những buổi chiều êm ả, mông lung.
Đoạn thơ thứ hai mở ra một thế giới khác của miền Tây:
“Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa
Kìa em xiêm áo tự bao giờ
Khèn lên man điệu , nàng e ấp
Nhạc về Viên Chăn xây hồn thơ”
Cảnh một đêm liên hoan văn nghệ của những người lính Tây Tiến có đồng bào địa phương đến góp vui được miêu tả bằng những chi tiết rất thực mà cũng rất thơ mộng. Từ “bừng lên” kết hợp với hình ảnh đẹp “ đuốc hoa” miêu tả không khí sôi nổi, cả doanh trại bừng sáng, lung linh ánh lửa đuốc khi đêm văn nghệ bắt đầu. Tiếng reo “kìa em xiêm áo tự bao giờ” thể hiện sự ngỡ ngàng, ngạc nhiên, say mê, vui sướng của các anh lính Tây Tiến trước vẻ lộng lẫy bất ngờ của các cô gái nơi núi rừng. Các cô gái chính là trung tâm, là linh hồn của đêm hội có vẻ đẹp e thẹn, tình tứ, mềm mại, duyên dáng trong một vũ điệu đậm màu sắc xứ lạ “ man điệu” đã thu hút hồn vía của các chàng trai Tây Tiến. Không khí của đêm liên hoan còn ngây ngất hơn bởi tiếng khèn rạo rực, réo rắt khiến cho cả con người, cảnh vật như bốc men say, trở nên phong phú, sinh động như muốn “ xây hồn thơ” lãng mạn. Đây cũng chính là tâm hồn hào hoa, tinh tế của Quang Dũng
Nếu cảnh đêm liên hoan đem đến cho người đọc không khí háo hức thì cảnh sông nước miền Tây lại gợi lên cảm giác mênh mang, mờ ảo:
Người đi Châu Mộc chiều sương ấy
Có thấy hồn lau nẻo bến bờ
Có nhớ dáng người trên độc mộc
Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa.
Ngòi bút của Quang Dũng không tả mà chỉ gợi. Những hình ảnh “ chiều sương ấy” , “hồn lau” , “ nẻo bến bờ” , “ hoa đong đưa” kết hợp với cách hỏi “ có thấy” , “ có nhớ” mở ra một khung cảnh buổi chiều sương trong kí ức. Sương mờ giăng mắc khắp không gian , bến bờ lặng lẽ hoang dại , trên sông xuất hiện một dáng người mềm mại , uyển chuyển của cô gái Thái trên chiếc thuyền độc mộc, những bông hoa rừng đong đưa làm duyên trong dòng nước. Cảnh như có hồn , có sự thiêng liêng của núi rừng , đậm màu sắc cổ tích và huyền thoại. Qua những nét vẽ hư ảo trên , ta như thấy trước mắt mình một bức tranh sơn thuỷ hữu tình mang dấu ấn của một tâm hồn nhạy cảm, tinh tế, lãng mạn, tài hoa, vô cùng yêu mến, gắn bó với mảnh đất miền tây-tâm hồn Quang Dũng. Đồng thời ta cũng cảm nhận được tâm hồn rung động của các chiến sĩ Tây Tiến trước cái đẹp.
Trong hai đoạn thơ sau, nhà thơ không miêu tả cảnh thiên nhiên nữa mà tập trung vào khắc hoạ chân dung người lính tây tiến và nỗi nhớ miền tây bằng những nét vẽ khoẻ khoắn, mạnh bạo, gân guốc đạm chất bi tráng.
Tám câu thơ của khổ hai đã vẽ nên khung cảnh thiên nhiên, con người miền tây với vẻ đẹp mĩ lệ, thơ mộng, trữ tình. Chất nhạc, chất hoạ, chất mơ mộng hoà quyện chặt chẽ với nhau trong đoạn thơ tạo nên một thế giới của cái đẹp. Từng nét vẽ của Quang Dũng đều mềm mại, tinh tế, uyển chuyển. Đây là đoạn thơ bộc lộ rõ nhất sự tài hoa, lãng mạn của Quang Dũng trong tổng thể bài thơ.
18/06/2023
"Thơ làm cho tất cả những gì tốt đẹp trở thành bất tử". (Shefley) Và Quang Dũng đã làm sống lại những gì đẹp đẽ nhất, những kí ức khó quên nhất trong cuộc đời người lính. Đó không chỉ là những giây phút hành quân nơi núi cao vực sâu dốc thẳm mà còn là những khoảnh khắc bình yên. Đêm hội liên hoan tại một bản làng trên vùng núi cao Tây Bắc là một hành trang tinh thần không thể thiếu trong cuộc đời người lính.
"Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa"
Doanh trại không chỉ là không gian của hiện thực mà còn là không gian của tâm tưởng, của hoài niệm và nỗi nhớ. Nơi đó đang bừng lên bởi những ngọn lửa bập bùng mà tác giả liên tưởng đến đuốc hoa. Những bông hoa lửa như thắp sáng cả cánh rừng đại ngàn, đẩy lùi bóng tối, xua tan sự lạnh lẽo, làm bừng sáng cả không gian. Hai từ "bừng lên" không chỉ là bừng lên của ngọn đuốc mà còn là "bừng lên" của kỉ niệm, của hồi ức như một tiếng reo vui biết bao hồ hởi, say mê. Không còn những chặng đường hành quân vất vả, cũng không còn những bước chân nhọc nhằn ra trận mà chỉ còn lại không khí rộn ràng sôi nổi. Người lính như quên hết những mệt mỏi hiểm nguy để đắm hồn mình vào đêm hội liên hoan ấy.
Hình ảnh trung tâm của đêm hội liên hoan là sự hiện diện của những cô thiếu nữ vùng sơn cước:
"Kìa em xiêm áo tự bao giờ
Khèn lên man điệu nàng e ấp
Nhạc về Viên Chăn xây hồn thơ."
Trong ánh lửa bập bùng của ngọn đuốc lung linh kì ảo, trong tiếng khèn tiếng nhạc du dương, những cô thiếu nữ vùng cao xuất hiện với vẻ đẹp lộng lẫy, quyến rũ, e ấp, duyên dáng và tình tứ khiến những chàng lính không khỏi ngạc nhiên, ngỡ ngàng. "Kìa em" là tiếng reo với bao bất ngờ vui sướng và có cả sự thán phục ngợi khen. Với những bộ trang phục thật đẹp và lạ mắt, với những vũ điệu đậm sắc màu dân tộc và cả nét e ấp e thẹn, những cô gái sơn cước đã khiến bao chàng trai Tây Tiến như bị hút hồn, ngây ngất.
Cảnh vật và con người đểu như ngả nghiêng, say sưa trong tiếng khèn, tiếng nhạc, trong những vũ điệu ngọt ngào say đắm, vừa có chút gì đó hoang dại bí ẩn mê hoặc lòng người. Những âm thanh khốc liệt của súng đạn bị đẩy lùi chỉ còn những tâm hồn lãng mạn, những "hồn thơ" hòa mình trong điệu nhảy điệu múa đến say lòng người.
Sau những hoài niệm về đêm lửa trại ấm áp tình quân dân là những bâng khuâng xa vắng trong nỗi nhớ miên man về cảnh sông nước và con người miền Tây Bắc.
"Người đi Châu Mộc chiều sương ấy
Có thấy hồn lau nẻo bến bờ"
Sông nước miền Tây hiện ra vào một buổi chiều sương tĩnh lặng. Không gian giăng mắc một màn sương mênh mang, mờ ảo và nhạt nhòa, tạo nên vẻ đẹp lãng mạn huyền ảo. Ở đây không phải là sương lấp, sương che hay sương phủ mà là sương giăng, ta như cảm nhận được cái thực và cái mộng của khí trời Tây Bắc bảng lảng sương khói hiện ra như một miền cổ tích.
Hai bên bờ sông là những dãy lau ngút ngàn gợi lên một không gian hoang sơ tĩnh lặng. Những bông lau chập chờn lay động như có hồn. Hồn của lau hay chính tâm hồn của nhà thơ đã hóa thân vào cảnh vật trong những bông lau phất phơ, huyền ảo. Khung cảnh sông nước hoang vắng man mác buồn chợt khiến ta nhớ đến dòng sông Đà trong trang văn của Nguyễn Tuân "dòng sông như chảy từ tiền cổ", "bờ sông hoang dại như một bờ tiền sử. Bờ sông hồn nhiên như một nỗi niềm cổ tích xưa."
Sông nước miền Tây không chỉ hiện lên đậm chất hiện thực mà còn rất đỗi thơ mộng trữ tình. Vẻ đẹp của con người hòa quyện trong vẻ đẹp của thiên nhiên.
"Có nhớ dáng người trên độc mộc
Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa."
Hình ảnh thiếu nữ Tây Bắc xuất hiện trên chiếc thuyền độc mộc với vẻ đẹp vừa mềm mại uyển chuyển, duyên dáng lại vừa vững chãi đưa con thuyền xuôi dòng. Hình ảnh người con gái trở thành trung tâm hội tụ linh hồn của bức tranh sông nước miền Tây. Không phải ngẫu nhiên khi Quang Dũng đặt hình ảnh người thiếu nữ bên cạnh "hoa đong đưa". "Đong đưa" chứ không phải là "đung đưa". Nếu "đung đưa" chỉ là sự chuyển động vật lý thì "đong đưa" còn đem đến tâm trạng, linh hồn cho cảnh vật. Những bông hoa rừng trở thành những sinh thể có hồn. Hoa cũng như con người đang soi mình trong gương nước chòng chành, cũng biết làm duyên làm dáng. Hóa ra con người Tây Bắc, bóng dáng của người thiếu nữ trên chiếc thuyền độc mộc cũng đẹp như những bông hoa rừng trong chiều sương mờ ảo.
18/06/2023
Quang Dũng vốn là lính của đơn vị Tây Tiến, một đơn vị có nhiệm vụ phối hợp với bộ đội Lào để giải phóng và bảo vệ miền biên cương phía Tây Tổ quốc. Sau đó Quang Dũng chuyển đơn vị công tác. Năm 1948, một lần ngồi ở làng Phù Lưu Chanh (một địa danh cũ thuộc tỉnh Hà Đông), nhớ lại những kỉ niệm về đoàn quân Tây Tiến, tác giả cảm xúc viết lên bài thơ tuyệt bút – Tây Tiến. Tây Tiến không chỉ là bài thơ hay nổi tiếng của Quang Dũng nói riêng, của thơ ca kháng chiến chống Pháp nói chung mà còn là một trong những tác phẩm tiêu biểu viết về đề tài người lính, vẻ đẹp lãng mạn và tinh thần bi tráng được thể hiện qua thiên nhiên Tây Bắc và hình tượng người lính là hai nét đặc sắc trong cảm hứng và bút pháp nghệ thuật của Tây Tiến. Đoạn thơ sau viết về những kỉ niệm tình quân dân đầy thi vị và vẻ đẹp thơ mộng của sông nước Tây Bắc bằng những nét vẽ tinh tế mềm mại:
Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa
Kìa em xiêm áo tự bao giờ
Khèn lên man điệu nàng e ấp
Nhạc về Viên Chăn xây hồn thơ
Người đi Châu Mộc chiều sương ấy
Có thấy hồn lau nẻo bến bờ
Có nhớ dáng người trên độc mộc
Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa
Từ “bừng” trong câu thơ đầu tiên của đoạn thơ đã gợi cho ta cảm giác đột ngột. Đó là sự “bừng” sáng của hội đuốc hoa, của lửa trại hay sự tưng bừng rộn rã của tiếng khèn, tiếng hát? “Đuốc hoa” vốn là một từ cổ để chỉ cây nến đốt lên trong phòng cưới đêm tân hôn “Đuốc hoa chẳng thẹn với chàng Mai xưa”. Hình ảnh này xuất hiện trong đêm vui liên hoan của người lính đã tạo nên một màu sắc vừa cổ kính vừa hiện đại, vừa thiêng liêng vừa ấm áp tình keo sơn quân dân gắn bó.
Đây là đoạn thơ bộc lộ rất rõ nét tài hoa của ngòi bút Quang Dũng. Hồn thơ lãng mạn của ông bị hấp dẫn trước những vẻ đẹp mang màu sắc bí ẩn của con người và cảnh vật nơi xứ lạ. Vì thế, cảnh là cảnh trong hoài niệm vậy mà lời thơ lại cho ta cảm giác đó là cảnh đang diễn ra ngay trước mắt. Và nhà thơ như đang nói với người vũ nữ “Kìa em xiêm áo tự bao giờ!” – một giọng thơ thật trìu mến, thích thú, vui sướng! Vui sướng đến ngạc nhiên ngỡ ngàng trước vẻ đẹp vừa e thẹn, vừa tình tứ (nàng e ấp) với bộ xiêm y lộng lẫy trong một vũ điệu mang đậm màu sắc xứ lạ (man điệu). Chỉ bằng 4 câu thơ mà Quang Dũng đã dựng được một bức tranh vừa phong phú về màu sắc đường nét, vừa đa dạng về âm thanh.
Nếu khung cảnh đêm liên hoan văn nghệ trong những câu thơ trên đem đến cho người đọc không khí mê say ngây ngất thì cảnh sông nước Tây Bắc lại gọi lên được cảm giác mênh mang, hoang dại, tĩnh lặng và mờ ảo thật chứa chan thi vị. Ở đây một lần nữa càng khẳng định rõ hơn nét tài hoa, lãng mạn, giấc mộng mơ của người lính. Thiên nhiên ở nơi chốn chỉ có “Núi sương giăng, đèo mây phủ” khi cảnh chiều về vốn đã mờ ảo lại càng mờ ảo thêm khi có lớp sương mờ bảng lảng choàng thêm một tấm áo như thực như mơ. Qua hoài niệm, khung cảnh Tây Bắc như hiện về trong kí ức của tác giả làm cho giọng thơ của tác giả cất lên như lời tự hỏi “có nhớ? có thấy?” day dứt càng gợi cảm giác bâng khuâng xa vắng, đầy lưu luyến. Con người tài hoa và lãng mạn ấy thấy bạt ngàn hồn lau trong gió trong cây như xôn xao một nỗi niềm:
Người đi Châu Mộc chiều sương ấy
Có thấy hồn lau nẻo bến bờ
Hình ảnh này chúng ta đã từng gặp trong thơ của Chế Lan Viên:
Ai đi biên giới cho lòng ta theo với
Thăm ngàn lau chỉ trắng có một mình
Bạt ngàn trắng ở tận cùng bờ cõi
Suốt một đời cùng với gió giao tranh
(Lau biên giới)
Hay những câu thơ viết về hồn lau trong gió gợi cảm giác về cảnh buồn vắng lặng tờ như thời tiền sử huyền thoại của thi sĩ kiêm họa sĩ Hoàng Hữu:
Trường vắng mưa mờ buông dốc xa
Dày leo nửa mái sắc rêu nhoà
Người xa phơ phất hồn lau gió
Thổi trắng chân đồi như khói pha
(Hoa lau trường cũ)
Trong khung cảnh sông nước, chiều sương mang đậm màu sắc cổ kính huyền thoại ấy hiện lên hình ảnh con thuyền độc mộc với cái dáng mềm mại của cô gái và bông hoa trôi theo dòng nước lũ:
Có nhớ dáng người trên độc mộc
Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa
Câu nói của người xưa: “Thi trung hữu họa” thật đúng với trường hợp này. Ngòi bút tinh tế của Quang Dũng chỉ phác hoạ một vài nét mà không chỉ gợi được cái “hồn” của ngàn lau mà còn cả cái dáng rất tạo hình của cô gái lái đò người Mèo, người Thái, cái dáng ngả nghiêng rất tình tứ “đong đưa” chứ không phải “đung đưa” của những bông hoa rừng như muốn làm duyên bên dòng nước lũ. Hai từ “thấy” và “nhớ” được tác giả dùng trong hai câu thơ trên cũng khá tinh tế. Dường như cái hồn thiêng của bông hoa lau đã in hình rõ nét trong mắt tác giả còn cái dáng mềm mại thon thả của cô lái đò cùng bông hoa rừng đong đưa lại khắc sâu vào tâm trí nhà thơ vốn giàu tình yêu cảnh đẹp non sông đất nước này. Không có một tâm hồn nhạy cảm tài hoa thì không thể bắt rất nhạy những hình ảnh giàu hình sắc của hoa như thế.
Bốn câu thơ như một bức tranh thủy mặc với những nét vẽ chấm phá, tinh tế, mềm mại, tài hoa đã truyền được cái hồn của cảnh vật. Hơn thế, đọc đoạn thơ này lên, người đọc có cảm giác đoạn thơ không chỉ được khắc, được phổ vào những nốt nhạc tinh tế mà nhạc điều đó còn được cất lên từ một tâm hồn say đắm với cảnh và người miền Tây Tổ quốc của người lính Tây Tiến. Cho nên rất có lí khi Xuân Diệu nhận xét “Đọc bài thơ Tây Tiến ta có cảm giác như ngậm âm nhạc trong miệng”.
Đoạn thơ thể hiện bút pháp tài hoa của tác giả. Qua đó, người đọc thấy cảnh đêm liên hoan văn nghệ, cái sông nước Tây Bắc mang vẻ đẹp hiện thực lãng mạn mà huyền ảo với từng vần thơ vừa giàu chất nhạc vừa giàu chất họa. Đó cũng chính là sự kết hợp hài hòa tuyệt diệu giữa ba yếu tố: thơ, nhạc, họa trong thi phẩm của Quang Dũng.
18/06/2023
Thơ ca muôn đời nay luôn là tiếng lòng của người nghệ sĩ, là cây đàn muôn điệu đa bậc nhiều cung cảm xúc khác nhau. Thơ ca cũng là cầu nối giữa trái tim đến với trái tim, đi tìm chân trời của một người đến chân trời của triệu người. Bài thơ "Tây Tiến” của Quang Dũng cũng đã thực sự trở thành tiếng nói tri âm của độc giả. Đọc đoạn 2 của bài thơ ta ấn tượng sâu sắc về những kỉ niệm và nỗi nhớ qua đó tác giả thể hiện sinh động vẻ đẹp lãng mạn hào hoa của chiến sĩ Tây Tiến.
Bốn câu thơ đầu miêu tả những ấn tượng sâu sắc, những cảm nhận tinh tế của chiến sĩ Tây Tiến về một đêm lửa trại:
“Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa
Kìa em xiêm áo tự bao giờ
Khèn lên man điệu nàng e ấp
Nhạc về viên chăn xây hồn thơ”
Câu thơ đầu tựa như một tiếng reo vui. Đây là lần thứ hai, "lửa” và "đuốc” được liên tưởng tới hoa trong đêm sương ở Mường Lát, chiến sĩ Tây Tiến nhìn đuốc soi đường lung linh, huyền ảo mà thấy như "hoa về trong đêm hơi” thì lần này trong đêm lửa trại giữa bản làng miền Tây . Nghệ thuật ẩn dụ và cảm hứng lãng mạn đã khiến ánh lửa bập bùng nơi bóng quân trở thành đuốc hoa rực rỡ gợi liên tưởng thi vị, tình tứ, đem đến niềm vui náo nức, rạo rực cho lòng người, niềm vui khiến đêm liên hoan giữa bộ đội và dân làng trở thành đêm hội tưng bừng. Cụm từ "bừng lên” như một nốt nhấn tươi sáng cho cả câu thơ, nó không chỉ đem đến ấn tượng về ánh sáng chói lóa, đột ngột của lửa, của đuốc, xua đi cái tối tăm, lạnh lẽo của núi rừng mà còn thể hiện niềm vui sướng rạo rực trong lòng người. Người đọc có thể hình dung những ánh mắt ngỡ ngàng, những gương mặt bừng sáng của những anh chiến sĩ là do phản chiếu của ánh lửa, ấm lòng chiến sĩ, ngọn lửa của niềm vui, trẻ trung, lạc quan, tin tưởng vào tương lai.
Hình ảnh trung tâm của hội đuốc hoa là các cô thiếu nữ miền sơn cước "Kìa em xiêm áo tự bao giờ”. Từ "kìa” và từ nghi vấn "tự bao giờ” bộc lộ cảm giác vừa ngỡ ngàng thú vị, với ngưỡng mộ trìu mến của các chiến sĩ trước sự xuất hiện của các cô gái miền Tây. Đó là cảm giác rất chân thực trong một dịp hiếm hoi sau bao ngày hành quân giữa rừng già với núi cao, dốc thẳm, sương dày, với mưa rừng và thú dữ,… "Man điệu” có thể hiểu là những vũ điệu uyển chuyển của các sơn nữ, cũng có thể hiểu là giai điệu say đắm, ngọt ngào vừa hoang sơ, vừa bí ẩn, vừa mới mẻ lạ lủng làm mê hoặc lòng người. Với tâm hồn hào hoa, nghệ sĩ đặc biệt nhạy cảm với cái đẹp, người lính Tây Tiến say đắm chiêm ngưỡng và cảm nhận những hình ảnh rực rỡ, những âm thanh ngọt ngào của đêm lửa trại để được thả hồn phiêu diêu, bay bổng trong thế giới mộng mơ, để xây "hồn thơ”.
Trong dòng chảy miên viễn của thời gian, những hoài niệm bỗng lắng lại thật sâu ở một buổi chiều sương mộc:
“Người đi Châu Mộc chiều sương ấy
Có thấy hồn lau nẻo bến bờ
Có nhớ dáng người trên độc mộc
Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa”
Những nét vẽ mềm mại, tinh tế đã tạo nên một bức tranh thuỷ mặc với hồn lau bến nách, hơi sương giăng mờ mờ ảo ảo cùng con người trên chiếc thuyền độc mộc và cánh hoa trôi trong dòng nước lũ. "Chiều sương” gói trọn không gian phủ một lớp u buồn phảng phất lên cảnh vật. Chữ "ấy” bắt vần với chữ "thấy” làm cho âm điệu câu thơ trĩu nặng xuống như một nốt nhấn, như một sự nhắc nhở trong hoài niệm những bâng khuâng. Chịu sự tác động của nỗi nhớ, những bông hoa lau chập chờn, lay động trên những bến bờ dường như cũng có hồn hơn. Nếu từ láy "đung đưa” gợi hình hơn biểu cảm và chủ yếu gợi tả những cánh hoa rập rờn đôi bờ sông thì hình ảnh "hoa đong đưa” không dừng lại ở nét nghĩa cụ thể ấy mà còn đưa đến những liên tưởng thi vị về dáng vẻ dịu mềm, tình tứ của sơn nữ miền Tây, đó là một sáng tạo mới mẻ về ngôn từ thể hiện chất lãng mạn rất đặc sắc của hồn thơ "Quang Dũng.
Bức tranh thiên nhiên trong Tây Tiến đã được Quang Dũng thổi hồn vào cái nồng nàn của cảm xúc, những đường nét ấn tượng về hội hoạ và thanh âm trong trẻo của nhạc tính. Bức tranh ấy chính là nền tuyệt đẹp để người lính Tây Tiến xuất hiện một cách hiên ngang và hùng dũng. Cũng trên cái nền ấy tâm hồn và tài năng của nhà thơ đã được chắp cánh bởi sự say mê trong cảm xúc và tài hoa của nghệ thuật.
Gấp trang sách lại mà những vần thơ của Quang Dũng vẫn văng vẳng để rồi những cảm xúc chân thật nhất của nhà thơ gửi gắm mãi neo động trong tâm hồn con người trở thành một nỗi niềm chung
Nếu bạn muốn hỏi bài tập
Các câu hỏi của bạn luôn được giải đáp dưới 10 phút
CÂU HỎI LIÊN QUAN
Top thành viên trả lời