Câu chuyện Nữ Oa giống câu chuyện của người Dao.Chi tiết như sau:
i.Phục Hy là Bàn Cổ.
Trong thần thoại Trung Hoa, Bàn Cổ là vị thần sinh ra loài người. Nhưng câu chuyện vốn được diễn hóa từ thần thoại xa xưa của người Lạc Việt, còn được lưu trong Truyện cổ tích của người Dao: “Trời sinh ra quả bầu, được người gác lên gác bếp làm giống. Đại hồng thủy xảy ra, người ta chết hết. Trái bầu nổi lên mặt nước. Khi nước rút, quả bầu va vào đá bị vỡ. Mỗi hạt bầu là một giống người túa ra sống trên mặt đất.”Từ câu chuyện này mà trong tiếng Việt cổ, danh xưng “người” lần đầu tiên xuất hiện dưới tên gọi bầu bí. Từ đó ra đời câu ca “Bầu ơi thương lấy bí cùng…”Câu chuyện “Quả bầu”theo chân người Lạc Việt lên lưu vực Hoàng Hà, chuyển hóa theo cách nói Mông Cổ (tính ngữ đứng trước chủ ngữ) thành “Bầu quả.”Sau đó chuyển hóa tiếp thành nhân vật của thần thoại Trung Hoa “Bàn Cổ.” Cuối cùng thành tổ tiên loài người, ông “Bành Tổ.”Tích chuyện này được ghép vào huyền thoại Phục Hy.
ii. Phục Hy và Nữ Oa là anh em.
Motype anh chị em ruột lấy nhau trong truyện Phục Hy-Nữ Oa có lẽ được mượn từ câu chuyện xưa hơn: sự tích vẽ mình của người Lạc Việt. Sau đại hồng thủy, chỉ có hai chị em sống sót. Do chị em ruột không thể kết hôn nên hai người chia nhau đi tìm người phối ngẫu để bảo tồn nòi giống. Họ đi mãi mà không găp ai khác nên cuối cùng lại gặp nhau. Không thể kết hôn nên họ lại chia tay. Thiên lôi thương họ, bày cho người chị vẽ mặt để hình dung khác đi. Khi gặp lại, vì tưởng chị là người khác nên người em lấy chị và họ trở thành tổ tiên của loài người. Tục xăm mình xuất hiện từ đó. Motype này được ghép vào huyền thoại Phục Hy-Nữ Oa.
iii. Motype nặn đất thành người
Trong chuyện nói việc Phục Hy và Nữ Oa nặn đất tạo ra loài người. Ta chưa thấy trong huyền tích phương Đông có việc nặn đất sinh ra con người. Phải chăng motype này đã nhận được từ kinh Thánh Gia tô giáo?
iv. Việc làm lưới, vó
Truyền thuyết nói Phục Hy bày cho dân làm lưới làm vó đánh cá. Nhưng khảo cổ học tìm được hòn chì lưới tại văn hóa Hòa Bình, Bắc Sơn trước đó nhiều, cho thấy tạo ra lưới không phải công lao của Phục Hy.
v . Sáng tạo Bát quái và Dịch lý.
Trong những công trạng hậu thế dành cho Phục Hy, có lẽ việc vạch quái là xác thực hơn cả. Điều này được ghi trong kinh Dịch:
“Cổ giả Bào Hy thị vương thiên hạ giả, ngưỡng tác quan thượng ư thiên, phủ tắc quan pháp ư địa, quan điểu thú chi văn, dư địa chi nghi, cận thủ ư thân, viễn thủ ư vật, ư thị thủ tác Bát quái dĩ thông thần minh chi đức, dĩ loại vật chi tình” (Ngày xưa họ Bao Hy cai trị thiên hạ, ngửng lên nhìn trời, cúi xuống nhìn đất, xem xét dấu vết của chim thú, hình tượng đất đai, gần thì lấy ở thân mình, xa thì lấy ở vật, rồi làm ra tám quái để thông suốt cái đức của thần minh, điều hòa cái tình của vạn vật – Khổng tử, Hệ từ truyện). “Phù Dịch khai vật thành vụ, mạo thiên chi đạo, như tư nhi dĩ giả dã, thị cố thánh nhân dĩ thông thiên hạ chi chí, dĩ định thiên hạ chi nghiệp, dĩ đoán thiên hạ chi nghi.” (Dịch mở mang trí chí cho loài người, tạo thành muôn việc, gồm hết các đạo lý trong thiên hạ, cho nên thánh nhân dùng nó để thông cái chí của thiên hạ, thành tựu những việc trong thiên hạ, quyết đoán sự ngờ vực của thiên hạ – Khổng tử, Hệ từ truyện.)
Có lẽ, với tất cả tri thức của thế kỷ XX, từ truyền thuyết và cổ thư, một cách khách quan nhất, ta chỉ có thể loại bỏ những chuyện liên quan tới Bàn Cổ, là anh em với Nữ Oa hay nặn đất sinh ra loài người khỏi vai trò của Phục hy đồng thời xác nhận ông có công trong vạch Bát quái. Tuy nhiên, như vậy chúng ta cũng chưa thể khôi phục diện mạo của một Phục Hy lịch sử.