11/10/2023
11/10/2023
Tiếng đàn xưa đứt ngang dây
Hai trăm năm lại càng say lòng người
Trải bao gió dập sóng dồi
Tấm lòng thơ vẫn tình đời thiết tha
Ấy là những vần thơ mà nhà thơ Tố Hữu viết để tri ân đại thi hào Nguyễn Du. “Truyện Kiều” có gì mà làm say lòng người đến thế? Tiếng đàn bạc mệnh của Kiều vì sao vẫn vang vọng đến ngày nay? Có lẽ, chính “Tấm lòng thơ” gắn liền với tình yêu thương con người của Nguyễn Du đã làm nên sức sống mãnh liệt cho “Truyện Kiều”. Điều này được thể hiện rất rõ qua tám câu thơ cuối thuộc đoạn trích “Kiều ở lầu Ngưng Bích” với nghệ thuật tả cảnh ngụ tình.
Đoạn trích “Kiều ở lầu Ngưng Bích” nằm ở phần II “Gia biến và lưu lạc” của “Truyện Kiều”. Sau khi bán mình chuộc cha và bị tên lưu manh Mã Giám Sinh lừa gạt, Kiều vô cùng đau đớn nên đã tìm đến cái chết. Nàng không chịu tiếp khách làng chơi. Không muốn mất đi “món hàng” quý giá này, Tú Bà đã lựa lời khuyên giải, dụ dỗ Kiều. Mụ chăm sóc, thuốc thang cho Kiều và hứa sẽ tìm người tử tế để gả nàng đi. Tú Bà giam lỏng Kiều ở lầu Ngưng Bích. Sống giữa nơi hiu quạnh, Kiều cô đơn và đau lòng đến tột cùng. Tám câu thơ cuối của đoạn trích là tâm trạng của Kiều được thể hiện qua cách nhìn cảnh vật.
Sau khi nhớ thương chàng Kim và cha mẹ, Kiều lại xót thương cho chính phận mình. “Cảnh nào cảnh chẳng đeo sầu”, cảnh vật được cảm nhận bằng tâm hồn của Kiều nhuốm màu buồn thê thiết:
Buồn trông cửa bể chiều hôm
Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa
Nhà thơ sử dụng ngôn ngữ độc thoại nội tâm để diễn tả nỗi lòng Kiều. Điệp từ “Buồn trông” được lặp lại bốn lần kết hợp với các hình ảnh thiên nhiên nhằm diễn tả sự tăng tiến của nỗi buồn. Nó vừa mang sắc thái thảng thốt, lo âu lại vừa thể hiện tâm thế trông ngóng một điều gì đó mơ hồ. Hai câu thơ đầu có thời gian “chiều hôm” gợi lên cảm giác nhớ nhà, khao khát sự đoàn viên. Hình ảnh con thuyền cùng cánh buồm thấp thoáng có ý nghĩa ẩn dụ sâu sắc. Cánh buồm nhỏ bé đơn độc giữa muôn trùng sóng nước, chìm vào ráng chiều tựa như hy vọng hạnh phúc của người con gái sắp tàn lụi. Con thuyền mỗi lúc một xa, không biết đến khi nào mới tìm được bến bờ ngơi nghỉ. Nhìn hình ảnh ấy, Kiều chợt nghĩ đến thân phận mình. Cuộc đời lưu lạc của nàng biết khi nào mới chấm dứt?
Cao dao xưa thường lấy những hình ảnh như hạt mưa sa, tấm lụa đào – những sự vật gợi sự mỏng manh, yếu đuối để nói về người phụ nữ. Ở đây, Kiều cũng ví thân phận mình với cánh hoa trôi:
Buồn trông ngọn nước mới sa
Hoa trôi man mác biết là về đâu
Câu hỏi tu từ “về đâu” được đặt ở cuối dòng thơ gợi lên nỗi băn khoăn, tâm trạng thấp thỏm của Kiều. Nàng không biết trông đợi vào đâu, tương lai chỉ là khoảng không mịt mù. Không gian cửa bể lúc triều lên cuộn xoáy đối lập với những cánh hoa tàn nhỏ bé trôi nổi trên mặt nước. Tâm trạng của Kiều đã được đẩy lên một cung bậc mới. Đó chính là sự vô phương đến hoảng hốt. Nó còn đem đến dự cảm về tương lai sóng gió.
Buồn trông nội cỏ rầu rầu
Chân mây mặt đất một màu xanh xanh
Nếu trong tiết thanh minh, sắc xanh của cỏ chứa đựng sức sống mãnh liệt: “Cỏ non xanh tận chân trời” thì đến đây, khung cảnh lại héo úa, tàn lụi. Từ láy “rầu rầu” diễn tả màu xanh nhàn nhạt, có phần ngả sang vàng. “nội cỏ”, “chân mây”, “mặt đất” mở ra không gian rộng lớn nghìn trùng. Ở nơi ấy, chân trời và mặt đất như nối liền với nhau, kéo dài tít tắp. Kiều trông ra thiên nhiên để tìm kiếm sự tri âm nhưng càng hi vọng thì càng thất vọng não nề. Ánh nhìn của Kiều gợi ta nhớ đến hình ảnh người chinh phụ trong “Chinh phụ ngâm”. Người chinh phụ nhớ thương chồng, nhìn mãi theo bóng chồng mà chỉ thấy thiên nhiên vời vợi:
Cùng trông lại mà cùng chẳng thấy
Thấy xanh xanh những mấy ngàn dâu
Cùng là cái “xanh xanh” bất tận diễn tả nỗi buồn, sự cô đơn nhưng nếu người chinh phụ còn có hình bóng chồng để ngóng trông, nuôi dưỡng hi vọng về tương lai đoàn tụ thì Kiều lại chẳng có gì để trông chờ. Kiều thương chàng Kim, thương cha mẹ, khát khao đoàn tụ biết bao nhiêu nhưng xã hội đồng tiền đã đẩy nàng vào con đường lưu lạc không biết đâu là bến bờ.
Hai câu thơ cuối đẩy tâm trạng bi thương của Kiều đến cung bậc cao nhất:
Buồn trông gió cuốn mặt duềnh
Ầm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi
Khung cảnh thiện nhiên đã có sự biến đổi. Gió cuốn mặt duềnh vô cùng dữ dội, sóng gào thét ầm ầm khi thủy triều dâng. Kiều cảm thấy những cơn sóng đáng sợ kia đang bủa vây lấy nàng, bao quanh chân ghế nơi nàng ngồi để rồi kéo nàng xuống đáy vực sâu thẳm. Cơn khủng hoảng nội tâm khiến thế giới quanh Kiều chao đảo. Thiên nhiên không chỉ là những hình ảnh tả thực mà còn ẩn dụ cho những biến cố sắp sửa ập đến. Cảnh được nhìn từ xa tới gần, màu sắc chuyển đổi từ nhạt đến đậm, âm thanh từ tĩnh đến động để đồng nhất với tâm trạng cô liêu, tủi thân tủi phận đến vô phương, kinh sợ trong lòng Kiều.
Đoạn thơ tiêu biểu cho bút pháp tả cảnh ngụ tình đặc sắc của Nguyễn Du. Thông qua thể thơ lục bát truyền thống, điệp từ “Buồn trông” cùng hệ thống các hình ảnh thiên nhiên có tính chất ẩn dụ, hệ thống từ láy giàu sức gợi, đại thi hào Nguyễn Du đã diễn tả một cách tinh tế những cung bậc cảm xúc của Kiều khi bị giam tại lầu Ngưng Bích. Từ đó, nhà thơ bày tỏ niềm xót xa, thương cảm cho hoàn cảnh của nàng và lên án xã hội đồng tiền đã đày ải người phụ nữ đến bước đường cùng.
“Kiều ở lầu Ngưng Bích” là một trong những trích đoạn đặc sắc nhất của “Truyện Kiều”. Nguyễn Du quả thực đã làm nên kiệt tác văn học, thể hiện vẻ đẹp của ngôn ngữ và tâm hồn con người Việt Nam:
Nghìn năm sau nhớ Nguyễn Du
Tiếng thương như tiếng mẹ ru những ngày
Nếu bạn muốn hỏi bài tập
Các câu hỏi của bạn luôn được giải đáp dưới 10 phút
CÂU HỎI LIÊN QUAN
31/08/2025
31/08/2025
Top thành viên trả lời