24/11/2023
25/11/2023
5.
a) Hai câu thơ trên được trích từ văn bản "Đoàn thuyền đánh cá" của Huy Cận.
b)
- Biện pháp tu từ: So sánh + nhân hóa
+ So sánh: "Biển cho ta cá" dc so sánh với "lòng mẹ"
+ Nhân hóa: Biển được nhân hóa có hành động của con người"nuôi lớn"
- Tác dụng:
- Biển rất giàu đẹp: cho con người cá, cung cấp nguồn hải sản vô cùng phong phú.
- Biển cả đối với ngư dân cũng rất ý nghĩa thủy chung, bao la như lòng mẹ chờ che nuôi nấng họ lớn lên, bao bọc họ với một tình cảm trìu mến, thân thương.
- Người dân bày tỏ tấm lòng yêu quý, biết ơn biển cả thiên nhiên đã ban cho họ nguồn sống quý giá.
c) Biển đảo có vai trò quan trọng trong cuộc sống của mỗi cá nhân, quốc gia, dân tộc. Biển không chỉ là người bạn của con người mà nó còn là người mẹ vĩ đại nuôi sống con người. Biết bao nhiêu làng chài ven biển đang ngày ngày bám biển tìm kiếm hạt ngọc cho đời. Những mẻ cá trĩu nặng, những vựa muối óng ánh chính là phần quà tuyệt vời mà thiên nhiên ban tặng cho con người. Không những thế, biển còn có những hòn đảo, những vị trí quân sự trọng yếu để bảo vệ đất mẹ từ xa. Chúng ta tự hào với những Hoàng Sa, Trường Sa sừng sững với những người lính quê hương đang ngày ngày vững cây súng bảo vệ tổ quốc. Không những thế biển còn là một chứng nhân lịch sử, một minh chứng hùng hồn cho những năm tháng đau thương mà anh hùng của cả dân tộc. Nhà tù Côn Đảo thuộc huyện đảo Phú Quốc là một trong những di tích lịch sử nổi tiếng. Nơi chứng kiến biết bao nhiêu lớp người đã anh dũng ngã xuống vì bình yên độc lập của quê hương. Biển yên bình nhưng vùi sâu trong nó là biết bao chiến tích được viết nên bằng máu và hoa. Như một nhạc sĩ nào đó đã từng viết “Ôi biển Việt Nam, ôi sóng Việt Nam. Qua bao nhiêu thăng trầm lửa thử vàng mới nên người. Vùi sâu dưới đáy những gì đau thương biển lại hát tình ca biển kể chuyện quê hương”. Trong cuộc sống hiện đại, thì biển càng đóng góp một vai trò vô cùng quan trọng với cuộc sống. Không chỉ cung cấp cho con người nguồn tài nguyên dồi dào về hải sản, dầu khí… Biển còn là nơi để con người tìm được sự cân bằng sau những ngày lao động mệt mỏi. Và nơi đây cũng mang một ý nghĩa chính trị lớn lao. Những năm qua, biết bao nhiêu thế hệ trẻ đã xung phong được ra đảo để bảo vệ tổ quốc. Các anh thực sự là những tấm gương sáng ngời để thế hệ trẻ chúng em noi theo tiếp nối truyền thống yêu nước vĩ đại của dân tộc.
6.
Nguyễn Dữ sống ở thế kỷ XVI quê ở huyện Trường Tân nay là Thanh Miện – Hải Dương. Ông là học trò của Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm. Các tác phẩm của ông đã đóng góp rất lớn cho nền văn học trung đại Việt Nam. Điển hình là "Truyền kỳ Mạn Lục" gồm có hai mươi câu chuyện nhỏ. Trong đó tiêu biểu là chuyện người con gái Nam Xương là câu chuyện thứ 16 của Truyền Kỳ Mạn Lục, được bắt đầu từ truyện "vợ chàng Trương". Qua việc xây dựng hình tượng Vũ Nương với đầy đủ những phẩm chất tốt đẹp nhưng lại chịu nhiều oan khuất, Nguyễn Dữ đã bày tỏ lòng thương cảm với Vũ Nương, với những người có số phận hẩm hiu giống nàng.
Vũ Nương tên thật là Vũ Thị Thiết, quê ở Nam Xương thuộc phủ Lý Nhân, xuất thân trong một gia đình nghèo khó, vừa có nhan sắc lại có đầy đủ đức hạnh. Vì thế Trương Sinh con nhà hào phú đã xin mẹ trăm lạng vàng để cưới về.
Phẩm hạnh tốt đẹp của Vũ Nương được thể hiện rất rõ trong các mối quan hệ với gia đình. Trong cuộc sống vợ chồng, nàng cư xử rất đúng mực, nhường nhịn, luôn biết giữ gìn khuôn phép cho nên dù chồng đa nghi, đối với vợ phải phòng ngừa quá mức nhưng vợ chồng không bao giờ thất hoà. Như vậy dù cuộc hôn nhân không xuất phát từ tình yêu và có dấu hiệu mua bán nhưng gia đình luôn êm ấm bởi đức hạnh của Vũ Nương. Khi tiễn Trương Sinh đi lính, nàng rót chén rượu đầy dặn dò những lời tình nghĩa đằm thắm thiết tha: "Chàng đi chuyến này, thiếp chẳng dám mong được đeo ấn phong hầu, mặc áo gấm hoa trở về quê cũ, chỉ xin ngày về mang theo được hai chữ bình yên, thế là đủ rồi". Lời tiễn biệt đó cho thấy nàng không trông mong vinh hiển mà chỉ cầu mong chàng bình yên trở về. Đó là mong ước giản dị, bình thường của người vợ, người phụ nữ luôn mong cuộc sống gia đình sum vầy, hạnh phúc. Không chỉ vậy, nàng còn biết cảm thông trước nỗi vất vả, gian lao mà người chồng phải chịu đựng khi ra chiến trường: "Chỉ e việc quân khó liệu, thế giặc khôn lường. Giặc cuồng còn lẩn lút, quân triều còn gian lao, rồi thế chẻ tre chưa có, mà mùa dưa chín quá kì, khiến thiếp ôm nỗi quan hoài, mẹ hiền lo lắng". Rồi nàng còn nói lên nỗi khắc khoải, nhớ nhung của mình trong những ngày chồng đi xa: "Nhìn trăng soi thành cũ, lại sửa soạn áo rét, gửi người ải xa, trông liễu rủ bãi hoang, lại thổn thức tâm tình, thương người đất thú. Dù có thư tín nghìn hàng, cũng không sợ có cánh hồng bay bổng". Những câu văn biền ngẫu sóng đôi, cân xứng nhịp nhàng như nhịp đập thổn thức của trái tim người vợ trẻ, lời tiễn biệt ân tình thể hiện tình yêu thương chồng và niềm khát khao một mái ấm hạnh phúc. Xa chồng, Vũ Nương không lúc nào không nghĩ đến, không nhớ thương: "Ngày qua tháng lại, thoắt đã nửa năm, mỗi khi thấy bướm lượn đầy vườn, mây che kín núi thì nỗi buồn nơi góc bể chân trời không thể nào ngăn được". Tác giả đã dùng những hình ảnh ước lệ, mượn cảnh vật thiên nhiên để diễn tả sự trôi chảy của thời gian. Thời gian trôi qua, không gian cảnh vật thay đổi, mùa xuân tươi vui đi qua, mùa đông ảm đạm lại đến còn lòng người thì dằng dặc một nỗi nhớ mong. Chi tiết nàng chỉ bóng mình trên tường và nói với con rằng "cha Đản lại đến" không chỉ muốn con ghi nhớ bóng hình người cha trong trái tim non nớt của nó, mà còn thể hiện tình cảm của nàng trước sau như một, gắn bó như hình với bóng. Nói với con như vậy để làm vơi đi nỗi nhớ thương chồng. Tâm trạng đó của Vũ Nương cũng là tâm trạng chung của những người vợ có chồng đi lính trong thời loạn lạc:
"Nhớ chàng đằng đẵng đường lên bằng trời
Trời thăm thẳm xa vời khôn thấu
Nỗi nhớ chàng đau đáu nào xong"
(Trích "Chinh phụ ngâm" - Đoàn Thị Điểm)
Không chỉ là một người vợ thủy chung mà Vũ Nương còn là người con dâu hiếu thảo. Khi chồng đi lính, nàng vẫn còn trẻ nhưng đã phải gánh vác mọi việc trong gia đình chồng. Trong xã hội, mối quan hệ mẹ chồng - nàng dâu rất khó dung hoà vậy mà Vũ Nương vẫn rất yêu quý, chăm sóc mẹ chồng như đối với cha mẹ đẻ của mình. Khi mẹ chồng ốm, nàng "hết sức thuốc thang và lễ bái thần phật, lấy lời ngọt ngào, khôn khéo, khuyên lơn". Những lời nói dịu dàng, những cử chỉ ân cần của nàng thật đáng trân trọng. Đặc biệt lời trăn trối của bà mẹ chồng trước khi mất: "Ngắn dài có số, tươi héo bởi trời. Mẹ không phải không muốn đợi chồng con về, mà gượng cơm cháo. Song tuổi thọ có chừng, số trời khó tránh. Đêm tàn chuông đổ, số tận mệnh cùng; một tấm thân tàn, nguy trong sớm tối, không khỏi phải phiền đến con. Chồng con xa xôi, mẹ chết lúc nào, không thể kịp về đền báo được. Sau này trời giúp người lành, ban cho phúc trạch, giống dòng tươi tốt, con cháu đông đàn, mong sông xanh kia chẳng phụ con cũng như con đã chẳng nỡ phụ mẹ" là sự ghi nhận, đánh giá rất cao công lao của Vũ Nương đối với gia đình. Đặt trong xã hội lúc bấy giờ thì đây là lời đánh giá thật xác đáng và khách quan khiến ta cảm nhận được nét đẹp trong phẩm chất của Vũ Nương. Rồi đến khi mẹ chồng mất, nàng hết lời thương xót, phàm việc ma chay tế lễ, lo liệu như cha mẹ ruột. Nàng làm những việc đó không chỉ vì bổn phận và trách nhiệm của người con dâu mà còn xuất phát từ lòng yêu thương, sự hiếu thảo mà nàng đã dành cho mẹ. Rõ ràng Vũ Nương là một người phụ nữ đảm đang, tháo vát. Trong cả ba tư cách: người vợ, người con, người mẹ, tư cách nào cũng nêu cao được đức hạnh của nàng: chung thủy, yêu thương chồng tha thiết, rất mực yêu thương con, hiếu thảo với mẹ chồng. Nàng là mẫu người phụ nữ lí tưởng trong xã hội phong kiến xưa, nàng xứng đáng được hưởng hạnh phúc bà được mọi người trân trọng.
Cứ ngỡ người phụ nữ như Vũ Nương sẽ có một cuộc sống hạnh phúc trọn vẹn, nhưng nàng lại vướng vào oan khuất đắng cay. Đó là khi Trương Sinh trở về, nghe lời con trẻ mà nghi nàng thất tiết và đã cư xử phũ phàng. Trước khi tự vẫn, nàng cố phân trần để chồng hiểu rõ tấm lòng mình. Nàng nói đến thân phận, tình nghĩa vợ chồng và khẳng định tấm lòng thủy chung của mình: "Thiếp vốn con kẻ khó, được nương tựa nhà giàu. Sum họp chưa thỏa tình chăn gối, chia phôi vì động việc lửa binh. Cách biệt ba năm giữ gìn một tiết. Tô son điểm phấn từng đã nguôi lòng, ngõ liễu tường hoa chưa hề bén gót. Đâu có sự mất nết hư thân như lời chàng nói. Dám bày tỏ để cởi mối nghi ngờ. Mong chàng đừng một mực nghi oan cho thiếp". Những lời nói của nàng đều vì muốn hàn gắn hạnh phúc gia đình đang có ngu cơ tan vỡ. Vũ Nương đã hết lời phân trần nhưng Trương Sinh không tin, vẫn mắng mỏ nàng thậm tệ và đánh đuổi nàng đi. Hạnh phúc gia đình - nỗi khao khát cả đời nàng đã tan vỡ, tình yêu không còn: "Nay đã bình rơi trâm gãy, mây tạnh mưa tan, sen rũ trong ao, liễu tàn trước gió, khóc tuyết bông hoa rụng cuống, kêu xuân cái én lìa đàn, nước thẳm buồm xa, đâu còn có thể lại lên núi vọng phu kia nữa". Cuộc hôn nhân đã không thể nào hàn gắn nổi. Bao công sức xây đắp tổ ấm đã trở nên vô nghĩa. Không thể nào giải được nỗi oan khuất, nàng tìm đến cái chết để bày tỏ tấm lòng mình: "Kẻ bạc mệnh này duyên phận hẩm hiu, chồng con rẫy bỏ, điều đâu bay buộc, tiếng chịu nhuốc nhơ, thần sông có linh, xin ngài chứng giám. Thiếp nếu đoan trang giữ tiết, trinh bạch gìn lòng, vào nước xin làm ngọc Mị Nương, xuống đất xin làm cỏ Ngu Mĩ. Nhược bằng lòng chim dạ cá, lừa chồng dối con, dưới xin làm mồi cho cá tôm, trên xin làm cơm cho diều quạ, và xin chịu khắp mọi người phỉ nhổ". Lời than như một lời nguyền xin thần sông chứng giám cho nỗi oan khuất của nàng. Hành động trẫm mình xuống dưới sông Hoàng Giang là hành động cuối cùng để bảo toàn danh dự. Nàng tìm đến cái chết trong nỗi tuyệt vọng nhưng cũng có sự chỉ đạo của lí trí: nàng tắm gội chay sạch trước khi chết và cầu nguyện một cách thanh thoát.
Tuy nhiên Vũ Nương vì trong sáng, vô tội nên được Linh Phi cứu giúp đưa về động rùa. Ở dưới thủy cung, nàng có được một cuộc sống sung túc cùng các tiên nữ nhưng nàng vẫn không nguôi nỗi đau trần thế, nỗi nhớ gia đình, quê hương và đặc biệt luôn khao khát được phục hồi danh dự. Hình ảnh Vũ Nương trở về trong đàn tràng giải oan của Trương Sinh và lời nói vọng vào của nàng thể hiện nàng là người ân nghĩa thủy chung. Đàn tràng giải oan, sự ân hận muộn màng của Trương Sinh thể hiện tấm lòng vị tha cao thượng. Điều đó còn thể hiện ước mơ ngàn đời của nhân dân ta về lẽ công bằng, người tốt dù trải qua bao nhiêu oan khuất cuối cùng cũng được minh oan.
Truyện thành công nhờ việc sắp xếp các tình tiết hợp lí, cách tạo tình huống thắt nút, mở nút. Trên cơ sở cốt truyện có sẵn, tác giả sắp xếp thêm một số tình tiết, thêm bớt, tô đậm những tình tiết có ý nghĩa làm cho diễn biến hợp lí, tăng tính bi kịch làm câu chuyện trên hấp dẫn. Nguyễn Dữ đã khéo léo sử dụng các yếu tố kì ảo tạo kết thúc có hậu làm nổi bật vẻ đẹp của nhân vật chính.
Qua vẻ đẹp và bi kịch của Vũ Nương, Nguyễn Dữ đã lên án, tố cáo xã hội phong kiến xem trọng quyền uy của người giàu, người đàn ông, đồng thời thể hiện tấm lòng trân trọng của mình đối với người phụ nữ phải chịu nhiều bất hạnh thiệt thòi trong xã hội.
24/11/2023
5.
a) Hai câu thơ trên được trích từ văn bản "Đoàn thuyền đánh cá" của Huy Cận.
b)
- Biện pháp tu từ: So sánh + nhân hóa
+ So sánh: "Biển cho ta cá" dc so sánh với "lòng mẹ"
+ Nhân hóa:Biển dc nhân hóa có hành động của con người"nuôi lớn"
- Tác dụng:
+ So sánh: So sánh là đối chiếu 2 hay nhiều sự vật, sự việc mà giữa chúng có những nét tương đồng để làm tăng sức gợi hình, gợi cảm cho lời văn
+ Nhân hóa:Nhân hóa là biện pháp tu từ sử dụng những từ ngữ chỉ hoạt động, tính cách, suy nghĩ, tên gọi ... vốn chỉ dành cho con người để miêu tả đồ vật, sự vật, con vật, cây cối khiến cho chúng trở nên sinh động, gần gũi, có hồn hơn.
c) Biển đối với đời sống con người có một vai trò hết sức quan trọng và to lớn. Trong tâm thức người Việt, biển là đất nước, là cuộc sống. Biển cả đối với con người thật ấm áp, như người mẹ hiền chở che, nuôi nấng con người lớn lên, bao bọc con người với một tình cảm trìu mến, thân thương.Biển đem lại cho chúng ta nhiều nguồn tài nguyên, khoáng sản: dầu khí, than, sắt, cát thủy tinh…cung cấp nguồn thủy hải sản với trữ lượng lớn: tôm, cá, cua,… Biển gắn liền với những giá trị thiêng liêng tâm linh và lịch sử: truyền thuyết về Lạc Long Quân và Âu Cơ, những chiến công lịch sử Bạch Đằng, Vân Đồn xưa, Cồn cỏ, đường huyền thoại Hồ Chí Minh trong kháng chiến chống Mỹ… Biển có vị trí đặc biệt quan trọng về quân sự, tạo nên nhiều khu du lịch sinh thái, nghỉ dưỡng…Biển có nhiều lợi ích giúp cho cuộc sống của chúng ta vậy mà lại có một số những hành động của con người làm hại, ảnh hưởng đến môi trường biển như các nhà máy, xí nghiệp thải nhiều chất độc hại; con người khai thác tài nguyên biển quá mức; …Biển cung cấp nguồn tài nguyên đảm bảo sự tồn tại và phát triển của nhân loại nhưng biển cũng cần sự bảo vệ của con người.Chúng ta cần nâng cao nhận thức về vị trí, tầm quan trọng của biển, hải đảo ; cũng như tôn vinh những giá trị của nó với sự sống cộng đồng, nâng cao trách nhiệm trong công tác quản lý, bảo vệ và phát triển bền vững tài nguyên, môi trường biển, hải đảo. Đặc biệt, trong thời điểm hiện tại cần xây dựng ý thức vươn ra biển, làm giàu từ biển trong cộng đồng người Việt Nam, từng bước khẳng định vị thế Việt Nam là một quốc gia mạnh về biển trong khu vực. Và song song với đó là xây dựng lực lượng quân sự hùng hậu đủ sức bảo vệ chủ quyền biển đảo.
6.
Thân phận người phụ nữ trong xã hội xưa luôn bị đặt dưới quyền của người nam giới, dưới những lề thói của xã hội. Người phụ nữ dù có xinh đẹp, giỏi giang thì vẫn chỉ là phận nữ nhi "tòng phu", không có tiếng nói. Trong các tác phẩm trung đại Việt Nam, không ít các nhà văn nhà thơ đã dùng lời văn lời thơ của mình để nói lên cái số phận đắng cay ấy của người phụ nữ, làm họ trở thành những hình mẫu điển hình của người phụ nữ truyền thống Việt. Trong số đó, nhân vật Vũ Nương trong tác phẩm "Chuyện người con gái Nam Xương" của Nguyễn Dữ là một trong những người phụ nữ có số phận thật bi kịch trong cuộc đời.
Vũ Nương vốn là một cô gái thùy mị đoan trang nhưng vì bị chồng đa nghi. Do xã hội phong kiến trọng nam khinh nữ nên ông coi trọng tiếng nói và uy quyền của đàn ông hơn phụ nữ nên đã chết oan uổng. Nhà văn Nguyễn Dữ muốn bày tỏ nỗi buồn cho những người phụ nữ xưa qua tác phẩm của mình và thể hiện tinh thần nhân văn của nhà văn.
Vũ Nương tên đầy đủ là Vũ Thị Thiết, là một cô gái nết na, xinh đẹp, thông minh được nhiều chàng trai để ý thầm thương trộm nhớ. Những năm nàng xuân, một chàng trai tên Trương Sinh, xuất thân từ một gia đình đơn thân chỉ có một mẹ một con, đến xin một trăm lạng vàng để cưới nàng.
Hôn nhân xưa cho rằng người phụ nữ không có quyền quyết định số phận và hạnh phúc tương lai của mình. Nàng cũng có suy nghĩ và cá tính riêng, nhưng chuyện tiến tới hôn nhân và hạnh phúc trăm năm thì cần phải nghe lời bố mẹ hai bên. Cô được Trương Sinh hỏi cưới với giá một trăm lạng vàng.
Từ ngày về làm dâu Trương Sinh, Vũ Nương luôn là người con dâu thảo, đảm đang, đảm đang, chưa bao giờ để nhà chồng trách móc điều gì. Vũ Nương luôn chu đáo từ trong ra ngoài. Từ xưa đến nay hiếm có người con dâu như nàng. Vũ Nương và Trương Sinh cũng thống nhất là không bao giờ to tiếng hay bất đồng quan điểm bởi Vũ Nương luôn coi trọng lời nói của chồng và mẹ chồng nhất. Với bản tính ngoan ngoãn, hiền lành, nết na, Vũ Nương luôn giữ được hạnh phúc gia đình êm ấm.
Hạnh phúc ngắn ngủi, Trương Sinh phải tòng quân đánh giặc nơi trận mạc, còn Vũ Nương thì luôn theo đạo hiền thục, đảm đang, phụng dưỡng mẹ chồng, đảm đang. Dù xa chồng nhưng Vũ Nương vẫn đợi chồng, chung thủy trước sau như một. Thậm chí không yếu đuối với bất kỳ ai. Nhưng chẳng bao lâu Trương Sinh ra đi thì mẹ vợ lâm bệnh, dù đã cố gắng uống thuốc nhưng bà cũng không qua khỏi mà qua đời, để lại Vũ Nương một mình với đứa con thơ dại.
Hai mẹ con nuôi nhau sống qua ngày chờ Trương Sinh trở về. Trong nhiều đêm buồn nhớ chồng Vũ Nương thường soi bóng chàng trên vách để báo cho con trai biết cin cũng có ba. Một cậu bé rất ngây thơ. Nó đâu biết đó chỉ là cái bóng của mẹ nó.
Chiến tranh kết thúc, ngày Trương Sinh trở về, Vũ Nương vui mừng tưởng chừng bao năm một mình chờ đợi nơi chồng đã được đền đáp. Nhưng cơn bão đang chuẩn bị ùa đến. Khi về đến nhà nghe tin mẹ mất, Trương Sinh vô cùng đau buồn, chàng liền dắt con ra mộ mẹ thắp nén hương cầu cho mẹ được bình yên. Nhưng cậu bé khóc không chịu nín, nhất quyết không nhận Trương Sinh là cha. Thằng bé lại bảo bố nó thường hay đến mỗi tối.
Trương Sinh nóng nảy, ghen tuông và đa nghi quá nên vội tin lời con, không một lời giải thích mà còn tức giận đuổi Vũ Nương ra khỏi nhà. Quá đau đớn vì không thể giải thích được sự trong trắng của mình, Vũ Nương đã gieo mình xuống sông Nhị Hà tự tử. Đứng trước nỗi bất công quá lớn ấy, Vũ Nương không còn sống được trên cõi đời này nữa.
Người con gái Vũ Nương ấy đã phải chết một cách oan uổng và đáng thương biết bao. Nhưng giá trị và đức độ cao cả của Vũ Nương đã làm rung chuyển đất trời. Cuối cùng khi Trương Sinh một đêm không ngủ nhìn chằm chằm vào bức tường, người con nhìn thấy bóng cha liền vui vẻ gọi “Cha”. Trương Sinh biết mình có lỗi với vợ nhưng hối hận thì đã quá muộn. Còn Vũ Nương sau khi chết được cứu sống rồi lập đàn giải oan thì nàng đã bay về trời để tránh những đau khổ, bất hạnh của nhân gian.
Qua vẻ đẹp và bi kịch của Vũ Nương, Nguyễn Dữ đã lên án, tố cáo xã hội phong kiến xem trọng quyền uy của người giàu, người đàn ông, đồng thời thể hiện tấm lòng trân trọng của mình đối với người phụ nữ phải chịu nhiều bất hạnh thiệt thòi trong xã hội.
Nếu bạn muốn hỏi bài tập
Các câu hỏi của bạn luôn được giải đáp dưới 10 phút
CÂU HỎI LIÊN QUAN
10 giờ trước
31/08/2025
Top thành viên trả lời