05/12/2023
05/12/2023
Tư tưởng nghệ thuật của Nam Cao trước cách mạng tháng Tám thiên hẳn về thân phận của những người nông dân thấp cổ bé họng. Ông đồng cảm đến lạ lùng với những thân phận con người thấp hèn trong xã hội. Những nhân vật của Nam Cao phần lớn đều là những người lương thiện, nhưng do không đủ sức đề kháng trước những cạm bẫy của chế độ xã hội nên họ dần bị biến chất và tha hóa. Tiêu biểu cho những nhân vật như thế là anh cu Lộ trong Tư Cách Mõ.
Anh vốn được sinh ra trong gia đình quan viên tử tế. Anh sống rất tử tế, hiền lành, không cờ bạc rượu chè nên được mọi người yêu mến. Anh cu Lộ hiền như đất. Cờ bạc không, rượu chè không, anh chỉ chăm chắm, chui chúi làm để nuôi vợ, nuôi con. Mặc dù gia đình nghèo khó nhưng anh tịnh không táy máy tay chân, trộm cắp đồ hàng xóm cho dù nó có bày ra trước mắt. Nhưng túng thì túng thật, mà bụng dạ anh ta khá. Anh chỉ làm mà ăn với nuôi vợ, nuôi con, chứ không hề ăn trộm, ăn cắp của ai. Cái sự túng làm liều, anh tịnh là không có. Nhà hàng xóm có con gà, con vịt chạy sang, hoặc buồng chuối, quả mít liền kề ngay với giậu nhà anh, anh cũng mặc thây, không hề có cái tính tắt ma, tắt mắt. Nói cho phải thì anh cu Lộ ăn ở phân minh lắm. Bởi vậy kẻ trên, người dưới, hàng xóm láng giềng ai cũng mến. Hiền đến thế, sống thanh bạch đến thế thì thôi! Nhưng cuộc sống không ai nói trước được điều gì. Anh cu Lộ từ một anh nông dân chất phác, hiền lành bỗng trở thành một anh mõ tham lam đê tiện, điều đó tại nơi lòng người nham hiểm, tục lệ xã hội thối nát mà ra.
Lộ trình từ một anh nông dân lương thiện trở thành một tên mõ tham lam của anh cu Lộ được bắt đầu từ câu chuyện của họ đạo Lưu An. Họ đạo Lưu An có khoảng sáu mươi suất đinh thì đã có quá nữa là quan viên. Vì danh dự, sỉ diện chả ai chịu làm mõ cả, (mõ là việc làm bị cho là thấp hèn vì phải đi mời mọi người khi có yến tiệc, họp hạt). Người bên lương, tất không ai chịu làm mõ cho bên đạo. Mà người bên đạo tất ai chịu làm mõ ngay trong họ mình? Nhưng cuối cùng họ cũng giải quyết ổn thỏa bằng cách thay cách gọi tên mõ bằng lềnh. Có như thế mọi người mới chịu làm vì họ cho rằng không bị sỉ nhục. Nhưng một hôm trong họ đạo xảy ra một sự kiện, có một tên vô gia cư không biết từ đâu đến làm thuê cuốc mướn không may vợ mất. Vì anh ta không phải người họ đạo nên làng không chịu cho chôn vợ, anh ta nài nỉ van xin mãi họ mới chấp nhận. Sau khi chôn cất vợ, anh ta được làng cho làm sãi để thay cho người làng.
Mãi về sau khi người sãi qua đời, người trong đạo cùng với thời gian đã quên bẵng lệ lềnh ngày xưa. Đến lúc này họ mới sốt sắng tìm người thay thế, và ngưởi được nhắm đến là anh cu Lộ. Dựa vào nhược điểm của anh là nghèo khó, người ta đã vẽ vời, bày ra những thứ lợi lộc để nhử anh. Lộ đến. Người ta kể tất cả những cái lợi lộc ra để nhử. Rồi người ta lại cố cắt nghĩa cho anh hiểu: làm sãi chẳng có gì là nhục, cũng là làm việc họ đấy thôi; ai cũng ngại không chịu đứng ra cáng đáng, thì mình đứng ra cáng đáng giùm cho cả họ; có phải mình tham lợi, tự nhiên đem trầu cau đến xin làm đâu mà sợ tiếng?…
Không, thế này, anh cu a: giá anh cầu cạnh để làm thì còn có người nói được. Đằng này anh không cầu cạnh, chúng tôi gọi anh đến, cho làm, thì việc gì anh không làm? Ấy là tất cả các cụ, cùng quan viên trên, quan viên dưới đều mến cái bụng anh hiền lành… Anh cứ làm.
Vốn hiền lành, chất phác lại ít học, nghe những lời đường tiếng mật anh cu Lộ gật gù thích chí và đồng ý làm sãi. Ôi, người đời thật nham hiểm! Ai cũng muốn mình được hưởng những điều tốt đẹp và đùn đẩy những khó khăn, hèn hạ cho người khác. Họ cậy quyền, ỷ thế để chèn ép những người thua thiệt về địa vị, kinh tế. Anh cu Lộ chỉ vì nghèo cùng với sự hiền lành đến khờ khạo của mình nên bị người khác lừa gạt gán ghép cho việc làm mà hầu hết mọi người đều né tránh vì cho là hèn hạ.
Cuộc đời làm mõ của anh cu Lộ thăng tiến rất nhanh, cuộc sống của anh sung túc khắm khá hẳn lên. Và quả nhiên, hắn làm được ít lâu thì nhà đỡ xo dụi hơn trước thật. Bởi vì hắn chăm chỉ lắm. mấy sào vườn họ cho, hắn cuốc xới rất kĩ càng. Hắn làm ngô, làm mía được mấy vụ tốt luôn. Tiền của họ cho, hắn bỏ ra lấy khô bã cho lợn ăn. Thói đời nghĩ cũng lạ, khi cần thì chẳng ai chịu làm đến khi người làm được thì tỏ ra tiếc nuối, ghen tị. Ông bà ta thường nói trâu cuộc ghét trâu ănquả thật chẳng sai. Anh cu Lộ nhờ làm mõ mà khắm khá hẳn lên, nhưng cũng từ đó anh bị mọi người hiềm khích ghen tị. Bấy giờ những anh khác trông thấy thế mới sinh ra tiếc. Họ thấy Lộ làm sãi ngon ăn quá. Họ ngấm ngầm ghen với hắn. Và chẳng người nào bảo người nào, họ vô tình về hùa với nhau để báo thù.
Mọi người bắt đầu coi khinh Lộ, phân biệt đối xử, xem Lộ như một người hèn hạ không xứng đáng được giao tiếp với họ.Trong những cuộc hội họp, nếu hắn có vui miệng nói chõ vào một vài câu, nhiều người đã ra vẻ khinh khỉnh, không thèm bắt chuyện…Sự rẻ khinh, lạnh nhạt của mọi người đối với anh cu Lộ ngày một lớn thêm, điều đó vô hình chung đã tạo nên vết thương nơi tâm hồn Lộ, anh cảm thấy xấu hổ và mặc cảm trước hành động của mọi người. Ý định thoái thác trách nhiêm nảy sinh trong đầu anh, nhưng anh vẫn cảm thấy tiếc cơ ngơi mình tạo dựng nên. Hắn thở ngắn, thở dài, lắm lúc hắn muốn bỏ phắt việc, trả lại vườn cho họ cho đỡ tức. nhưng nghỉ thì cũng tiếc. Hắn chăm cái vườn tốt lắm rồi. Để thằng khác ăn, nó hoài đi. Hắn lại tặc lưỡi một cái, và nghĩ bụng: “Mặc chúng nó!…”.Hành động đó cho ta thấy anh cu Lộ cũng là một người biết coi trọng liêm sỉ, biết thế nào là nhục là vinh. Tuy nhiên , sự rẻ rúng, miệt thị của mọi người dần làm cho tâm hồn anh chay san, tha hóa.
Như để chống lại sự khinh bỉ, lạnh nhạt của mội người, anh cu Lộ dần trở nên đanh đá hơn, sắc cạnh hơn. Hắn tặc lưỡi một cái và nghĩ bụng: “Muốn nói, ông cho chúng mày nói chán! Ông cần gì!…” Sức chịu đựng của con người có giới hạn, tức nước vỡ bờ. Đến lúc này anh cu Lộ đã trở thành mõ chính hiệu, đúng với tư cách mõ. Hắn bắt đầu trả thù cho sự rẻ lạnh của mọi người bằng cách tham lam. Muốn báo thù lại những anh đã cười hắn trước, tự hắn đi bưng lấy cỗ, và chọn lấy một cỗ thật to để các anh trông mà thèm.
Từ đấy cuộc đời làm mõ của anh cu Lộ rẽ sang hướng khác, tiến bộ hơn, thành công hơn. A! Họ bảo hắn là mõ vậy!… Đã vậy thì hắn tham cho mà biết!… Từ đấy, không những hắn đòi cổ to, lúc ăn hắn còn đòi xin thêm xôi, thêm thịt, thêm cơm nữa. không đem lên cho hắn thì tự hắn xông vào chỗ làm cổ mà xúc lấy. Ăn hết bao nhiêu thì hết, còn hắn gói đem về cho vợ con ăn, mà nếu vợ con ăn không hết, thì kho nấu để lại ăn hai, ba ngày… Hà hà! Phong lưu thật!… Cho chúng nó cứ cười khỏe đi!
Ở cuối tác phẩm ta thấy có một phát ngôn mang tính triết lí của Nam Cao và phần nào cũng bộc lộ tư tưởng nghệ thuật của nhà văn. Hỡi ôi! Thì ra lòng khinh, trọng của chúng ta có ảnh hưởng đến cái nhân cách của người khác nhiều lắm; nhiều người không biết gì là tự trọng, chỉ vì không được ai trọng cả; làm nhục người là một cách rất diệu để khiến người sinh đê tiện…
Một phát biểu thể hiện tinh thần nhân văn, nhân bản sâu sắc của Nam Cao. Ông đã đúc kết được nguyên nhân dẫn đến sự tha hóa của Lộ nói riêng, và những người thấp cổ bé họng trong xã hội nói chung đó là vì không được ai coi trọng cả. Nam Cao đã chỉ ra rằng: lòng khinh, trọng của chúng ta có ảnh hưởng đến cái nhân cách của người khác nhiều lắm. Với sự dày dạn, cùng những trải nghệm trong cuộc sống đã giúp Nam Cao nhìn thấu bản chất của vấn đề. Sự tha hóa của anh cu Lộ không phải do bản chất của anh ta tạo nên mà do khách quan bên ngoài đưa đến. Cụ thể đó là sự xuống cấp trầm trọng của một bộ phận người trong xã hội đương thời, cùng với đó là những phong tục tập quán lỗi thời, sự hạch sách, nhiễu nhương của bọn thực dân, địa chủ phong kiến.
Làm nên thành công của tác phẩm này không thể không nhắc đến nghệ thuật phân tích tâm lý nhân vật bậc thầy. Nam Cao như đã sống cùng với nhân vật Lộ, thấu hiểu, đồng cảm với những nỗi khổ của anh, nói hộ tiếng lòng của anh. Kết cấu truyện đi thẳng vào vấn đề trung tâm, không vòng vo cũng là điểm thu hút của truyện ngắn. Người kể chuyện ngôi thứ ba khách quan, dễ dàng đi ngược về quá khứ, rồi lại trở lại hiện tại giúp tác phẩm có điểm nhìn linh hoạt. Ngôn ngữ mang tính chất đời thường, thể hiện qua những mẩu đối thoại, những dòng nội tâm của nhân vật cũng góp phần làm nổi bật chủ đề của tác phẩm.
Vì thế có thể khẳng định với Tư cách Mõ Nam Cao đã khẳng định vị trí vững chãi của mình trên thi đàn văn học. Ông cũng đã có những cách tân lớn lao về thi pháp nghệ thuật, góp phần quan trọng vào việc đổi mới văn học Việt Nam.
Nếu bạn muốn hỏi bài tập
Các câu hỏi của bạn luôn được giải đáp dưới 10 phút
CÂU HỎI LIÊN QUAN
Top thành viên trả lời