09/12/2023
Cùng với Xuân Quỳnh, Phạm Tiến Duật, Nguyễn Duy, Bằng Việt, người con xứ Huế Nguyễn Khoa Điềm đã làm nên một thế hệ vàng những nhà thơ trẻ trong kháng chiến chống Mĩ cứu nước. Nổi bật lên trên nền thơ của những cây bút trực tiếp cầm súng thời kì này là sự tự ý thức của tuổi trẻ về vai trò, trách nhiệm của mình trong cuộc chiến đấu và sự nhận thức sâu sắc về đất nước, nhân dân qua những trải nghiệm của bản thân. Tâm tư của người trí thức tích cực tham gia vào cuộc chiến đấu của nhân dân đã được NKĐ thể hiện trên những trang thơ của ông bằng ngòi bút giàu chất trí tuệ, chất triết luận sâu lắng. Đề tài đất nước như một sợi chỉ đỏ xuyên suốt văn học Việt Nam bao đời nay. Ta gặp một đất nước anh hùng trong kháng chiến chống Pháp mang hồn thu Hà Nội của Nguyễn Đình Thi, đất nước cổ kính dân gian mang hồn thu Kinh Bắc của Hoàng Cầm, đất nước hóa thân trong dòng sông xanh đầy ắp kỉ niệm trong thơ Tế Hanh. Và thật thiếu sót nếu không nhắc đến những câu thơ viết về đất nước của Nguyễn Khoa Điềm. Bằng bài thơ “Đất Nước”, Nguyễn Khoa Điềm đã tìm được một cách nói riêng để trang thơ đất nước có thêm một rung cảm thẩm mĩ mới mẻ, thể hiện rõ nhất qua trích đoạn sau:
“Họ giữ và truyền cho ta hạt lúa ta trồng
Họ truyền lửa cho mỗi nhà từ hòn than qua con cúi
Họ truyền giọng điệu mình cho con tập nói
Họ gánh theo tên xã, tên làng trong mỗi chuyến di dân
Họ đắp đập be bờ cho người sau trông cây hái trái
Có ngoại xâm thì chống ngoại xâm
Có nội thù thì vùng lên đánh bại
Để Đất Nước này là Đất Nước Nhân dân
Đất Nước của Nhân dân, Đất Nước của ca dao thần thoại
Dạy anh biết “yêu em từ thuở trong nôi”
Biết quý công cầm vàng những ngày lặn lội
Biết trồng tre đợi ngày thành gậy
Đi trả thù mà không sợ dài lâu”.
Đoạn thơ đã biểu dương, ngợi ca vai trò của lịch sử, sức mạnh lớn lao kì diệu của nhân dân trong sự nghiệp dựng nước và giữ nước. Trong sự nghiệp dựng nước, nhân dân là người kiến tạo và bảo tồn những giá trị văn hoá tinh thần, truyền thống của dân tộc:
“Họ giữ và truyền cho ta hạt lúa ta trồng
Họ truyền lửa cho mỗi nhà từ hòn than qua con cúi
Họ truyền giọng điệu mình cho con tập nói
Họ gánh theo tên xã, tên làng trong mỗi chuyến di dân
Họ đắp đập be bờ cho người sau trông cây hái trái”
Ở đây tác giả dùng đại từ xưng hô số nhiều “họ”, chỉ nhân dân – những con người bé nhỏ, bình thường thuộc đám đông trong xã hội, chứ không phải là các cá nhân anh hùng. Với hệ thống các từ “giữ, truyền, gánh, đắp, be, dạy…” được sử dụng đan dày trong đoạn thơ ghi nhận sự đóng góp lớn lao của nhân dân đối với sự nghiệp kiến quốc. Nhân dân, bằng những việc làm cụ thể, bé nhỏ,rất đỗi bình dị mà thiết thực, ý nghĩa đã làm nên Đất Nước. Các hình ảnh gắn với chuỗi động từ này: hạt lúa, lửa, giọng nói, tên xã, tên làng, đập, bờ… một mặt tiếp tục thể hiện sự khám phá mới mẻ, độc đáo của nhà thơ về Đất Nước trong bề rộng không gian địa lí và tầng sâu của những truyền thống văn hoá; mặt khác còn khẳng định nhân dân chính là lực lượng đông đảo vừa kiến tạo bảo tồn, lưu giữ truyền thống giàu tình nghĩa, giàu tình yêu thương, cần cù lao động – đó là những giá trị văn hoá tinh thần cao quý của Đất Nước. Nhân dân cũng chính là người góp phần mở mang bờ cõi Đất Nước, khai sông, lấn biển qua mỗi chuyến di dân đầy gian khổ.
Trong cuộc đấu tranh giữ nước cũng chính là nhân dân chứ không ai khác viết lên trang sử bi tráng. Nhân dân, những con người “có ngoại xâm thì chống ngoại xâm/ có nội thù thì vùng lên đánh bại” khẳng định đầy tự hào và sức mạnh lớn lao của nhân dân chống thù trong, giặc ngoài. Chính nhân dân đã hun đúc nên truyền thống kiên cường, bất khuất. Đó là truyền thống chứa đựng bản lĩnh của một dân tộc.
Để Đất Nước này là “Đất Nước Nhân dân” chính là sự thể hiện cảm hứng chủ đạo bao trùm lên tòan đọan trích và cả Chương V của bản trường ca “Mặt đường khát vọng”. Đây chính là lời kết, là sự khái quát từ những gì đã được nhà thơ triển khai trên cả chiều dài của trang thơ và trong cả chiều sâu của dòng cảm hứng trữ tình- chính luận.
Nhân dân sáng tạo ra mọi giá trị văn hóa như ca dao, thần thoại. Như vậy cũng chính là đã sáng tạo ra đất nước. Để khẳng định điều này, Nguyễn Khoa Điềm đã lấy ý từ ba câu ca dao có nội dung sâu sắc để nói về ba phương diện quan trọng nhất của truyền thống nhân "Dạy anh biết yêu em từ thuở trong nôi”.
“Biết quý công cầm vàng những ngày lặn lội
Biết trồng tre đợi ngày thành gậy
Đi trả thù mà không sợ dài lâu”.
Qua đoạn thơ tác giả đã biểu dương, ngợi ca vai trò của lịch sử, sức mạnh lớn lao kì diệu của nhân dân trong sự nghiệp dựng nước và giữ nước. Trong sự nghiệp dựng nước, nhân dân là người kiến tạo và bảo tồn những giá trị văn hoá tinh thần, truyền thống của dân tộc. Đoạn thơ ghi nhận sự đóng góp lớn lao của nhân dân đối với sự nghiệp kiến quốc. Nhân dân, bằng những việc làm cụ thể, bé nhỏ, rất đỗi bình dị mà thiết thực, ý nghĩa đã làm nên Đất Nước. Các hình ảnh gắn với chuỗi động từ này: hạt lúa, lửa, giọng nói, tên xã, tên làng, đập, bờ… một mặt tiếp tục thể hiện sự khám phá mới mẻ, độc đáo của nhà thơ về Đất Nước trong bề rộng không gian địa lí và tầng sâu của những truyền thống văn hoá, tạo nên sự thống nhất trong cách thể hiện Đất Nước ở toàn bộ chương V; mặt khác còn khẳng định nhân dân chính là lực lượng đông đảo vừa kiến tạo bảo tồn. lưu giữ truyền thống giàu tình nghĩa, giàu tình yêu thương, cần cù lao động - đó là những giá trị văn hoá tinh thần cao quý của Đất Nước.
08/12/2023
“ Có mối tình nào nặng hơn mối tình tổ quốc?”
Biết bao thi nhân đã để lại một gia tài khổng lồ cho nên văn học nước nhà những tác phẩm về đề tài Tổ
quốc. Họ, cùng với trái tim chân thành, một tấm lòng nồng nàn yêu nước đã ghi lại, đã vẽ lại một Đất Nước với
những hình ảnh lớn lao, kì vĩ, họ nhìn Đất Nước qua những thứ tráng lệ, hào hoa và trang trọng nhất. Nhưng có
một nhà thơ đã đi trái lại với đa số những nhà thơ khác, đó là Nguyễn Khoa Điềm. Ông cảm nhận Đất Nước qua
những hình ảnh giản dị nhất, đơn sơ nhất và thân thuộc nhất và cũng không kém phần trang trọng. Tất cả những
điều đó được ông gói gọn trong đoạn trích “Đất Nước” trường ca “Mặt đường khát vọng”. Đoạn trích đã thể hiện
được một tư tưởng Đất Nước mới mẻ, và rõ nét nhất qua đoạn trích sau:
“ Họ giữ truyền cho ta hạt lúa ta trồng
Họ truyền lửa cho mỗi nhà từ hòn than qua con cúi
Họ truyền giọng điệu cho con mình tập nói
Họ gánh theo tên xã tên làng trong mỗi chuyến di dân
Họ đắp đập be bờ cho người sau trồng cây hái trái
Có ngoại xâm thì chống ngoại xâm
Có nội thù thì vùng lên đánh bại
Để Đất Nước này là Đất Nước Nhân dân
Đất Nước của Nhân dân, Đất Nước của ca dao thần thoại”.
Không còn là một khái niệm trừu tượng, chung chung; Nguyễn Khoa Điềm lý giải khái niệm Đất Nước
từ :“ Đất là nơi anh đến trường/ Nước là nơi em tắm” sau đó mới “ Đất Nước là nơi dân mình đoàn tụ”. Chính vì
lý giải một cách rõ ràng, rành mạch như thế thì ở đây tác giả mới có thể khẳng định chắc chắn rằng Đất Nước
này của của nhân dân ta.
“Họ giữ và truyền cho ta hạt lúa ta trồng
Họ chuyền lửa qua mỗi nhà từ hòn than qua con cúi”
Xuất hiện từ rất sớm, nền văn minh lúa nước đã nuôi sống biết bao thế hệ ông cha ta. Trong công việc
sản xuất, lao động thường ngày nhân dân ta đã làm ra hạt gạo; điều này không chỉ nuôi sống chính bản thân họ
mà còn góp phần thúc đẩy và phát triển nền nông nghiệp nước ta. Và cho đến bây giờ, việc trồng lúa nước vẫn
được người dân lưu truyền đồng thời còn giúp giữ gìn thói quen sản xuất sinh hoạt của ông cha ta.
Đi liền với việc giữ và truyền hạt lúa để dân ta sinh tồn là sự truyền giữ ngọn lủa từ đời này sang đời khác. Hình
ảnh ngọn lửa còn đại diện cho một bước phát triển khác của loài người đó là phát hiện ra lửa. Ngọn lửa đem lại
ánh sáng cho bao ngôi nhà, giúp sưởi ấm qua bao đêm rét lạnh buốt và xua đuổi cả thú dữ. Đưa con người từ
sinh sống bằng săn bắt hái lượm sang ăn chín uống sôi.
Ngọn lửa còn cho thấy được công cuộc giữ nước gian lao mà tổ tiên đã trải qua:
“ hỏa mai đánh bằng rơm con cúi cũng đốt xong nhà dạy đạo kia”
Tinh thần yêu nước, bất khuất chống ngoại xâm cũng từ đây mà có. Chỉ bằng những vật liệu thô sơ nhưng nhờ
vào lòng yêu nước, tinh thần dân tộc nhân dân ta cũng có thế đánh tan quân thù, họ là những con người anh
dũng, kiên cường, họ hiện ra với một lịch sử hào hùng và đáng quý trọng.
“Họ truyền giọng điệu cho con mình tập nói
Họ gánh theo tên làng tên xã trong mỗi chuyến di dân”
Một nét đẹp văn hóa khác mà khi nhắc đến một Đất Nước thường được đề cập đến đó chính là giọng
nói. Tiếng Việt ta thường biết đến là một thứ tiếng mang nhiều âm sắc mà chính nó đã làm cho tiếng Việt trở nên
đặc biệt. Trong cuộc sống thường ngày, người dân sử dụng tiếng nói để giao tiếp qua đó, bằng cách tự nhiên
nhất họ đã truyền cho con cháu mình âm sắc tự nhiên nhất để thế hệ sau này không quên đi cội nguồn, gốc gác.
Chính lời ăn tiếng nói hằng ngày đó đã tạo ra thứ của cải vô lâu đời và vô cùng quý giá của dân tộc: Tiếng Việt.
Cùng với cách trên, họ luôn mang theo tên làng tên xã của họ trong mỗi chuyến di dân. Điều này không chỉ
khẳng định lòng yêu quý đối với quê hương, họ luôn một lòng hướng về nơi chôn nhau cắt rốn. Chính vì lẽ này
mà đạo lý “uống nước nhớ nguồn” đã khắc sâu vào trong tâm trí của mỗi con người. Họ gánh theo tên làng còn
muốn nhắc nhở con cháu họ, những thế hệ sau biết về tổ tiên mình, để mọi đứa con đều biết quê hương mình để mỗi đứa con đều có quê hương để về.
Chính nhân dân đã tạo nên đất nước này nên họ, họ đã đặt nền móng sự sống cho Đât Nước. Từ việc truyền
hạt gạo, chuyền lửa đến chuyền giọng nói; và không chỉ có thế, họ còn là những chiến binh, những người dân
anh dũng sẵn sàng vùng lên đánh nội thù, chống ngoại xâm để bảo vệ chính quên hương, Đất Nước mình tạo
ra:
“ Có ngoại xâm thì chống ngoại xâm
Có nội thù thì vùng lên đánh bại”
Bằng cách sử dụng lối điệp cấu trúc hô ứng, hai câu thơ cùng với sự phối hợp động từ mạnh “chống”, “
vùng lên” khiến cho giọng thơ trở nên rắn rỏi, cương quyết, đanh thép mà không kém phần tình cảm. Bởi nhân
dân ta có truyền thống bất khuất chống giặc ngoại xâm, chính cái truyền thống tốt đẹp đó được gieo trong mỗi
con người mà Đất Nước tuyệt vời này được gìn giữ, độc lập đến tận bây giờ. Truyền thống ấy như: “làn sóng vô
cùng mạnh mẽ, to lớn, nó lướt qua mọi sự nguy hiểm, khó khăn, nó nhấn chìm tất cả lũ bán nước và lũ cướp
nước”.
Đây là vẻ đẹp của sự thật lịch sử, vẻ đẹp là tiền đề cho văn hóa và nuôi dưỡng văn hóa. Chỉ qua hai câu thơ với
lối dùng từ mộc mạc giản dị, giọng thơ vừa trữ tình vừa tự sự đã khẳng định được sức mạnh lớn lao, to lớn của
Nhân dân trong sự nghiệp giữ nước và dựng nước.
Từ việc đưa ra những lý lẽ trên, đến đây, tư tưởng về một Đất Nước mới đã được định nghĩa xong:
“Để Đất Nước này là Đất Nước của Nhân dân
Đất Nước của Nhân dân, Đất Nước của ca dao thần thoại”
Hai câu thơ là lời khẳng định một cách chắc nịch, lời khẳng định ấy là nguồn cảm hứng cho cả đoạn
đoạn trích trên và cả đoạn trích Đất Nước. Đây còn là tình cảm chân thành, mãnh liệt của nhà thơ đối với Đất
Nước. Hơn ai hết, Nguyễn Khoa Điềm hiểu rằng, để có được đất nước ngày hôm nay trường tồn và vững mạnh
thì ông cha ta, tổ tiên ta đã đánh đổi rất nhiều mới có được, họ đã “hóa thân thành dáng hình xứ sở” để nuôi
dưỡng bao đời sau, để bảo vệ cho con cháu. Bởi như thế, Đất Nước không của riêng ai mà Đất Nước này là của
chung, của mọi người dân nằm trong đó. Nó mãi mãi thuộc về Nhân dân.
Để chốt lại đoạn thơ, NKĐ nói rằng Đất Nước của ca dao thần thoại. Đây là một câu nói nhằm khẳng định lại một
lần nữa, khẳng định chắc chắn ĐÂY CHÍNH LÀ ĐẤT NƯỚC CỦA NHÂN DÂN. Bởi khi nhắc đến ca dao thần
thoại là nhắc đến nhân dân. Chính những người dân là người đã tạo ra văn hóa, sáng tạo ra ca dao thần thoại,
mà “đất nước của ca dao thần thoại” là một đất nước tươi đẹp vô cùng, một đất nước đẹp như vầng trăng cổ
tích, ngọt ngào tựa như lời ru ấm áp của mẹ. Ông cha ta đã tạo ra một Đất Nước đẹp đến như thế đấy!
Bằng cách giải thích độc đáo, rất riêng này của NKĐ mà khái niệm Đất Nước vô hình, trừu tượng trở nên rõ
ràng, hiện hữu. Chính những chiều sâu về văn hóa mà ông thể hiện trong đoạn thơ trên đã tạo ra “gương mặt
thơ NKĐ”. Chính vì lẽ đó mà khi nhắc đến nhà thơ viết về tổ quốc thì NKĐ luôn là cái tên sáng giá luôn được
nhắc đến như ngày hôm nay.
NKĐ đã từng tâm sự: “Đất Nước của những người khác là những huyền thoại, những anh hùng. Nhưng
đối với tôi Đất Nước là của con người vô danh, của người dân”. Có lẽ bởi vì chính tư tưởng đó mà thơ của ông
luôn mang tính sáng tạo, đi sâu vào trong tâm trí người đọc, và đến tận bây giờ những vần thơ của ông không
nhuốm màu bụi xám mà luôn được mọi người biết đến
Nếu bạn muốn hỏi bài tập
Các câu hỏi của bạn luôn được giải đáp dưới 10 phút
CÂU HỎI LIÊN QUAN
1 giờ trước
Top thành viên trả lời