"Thơ thể hiện cảm xúc, suy nghĩ, tâm trạng con người bằng ngôn ngữ cô động, gợi cảm giàu hình ảnh và nhạc điệu" anh chị hiểu ý kiến trên như thế nào? Qua bài thơ "Ánh trăng" của nguyễn Duy và "Bếp lửa"...

ADS
thumb up 0
thumb down
Trả lời câu hỏi của Nguyễn Tâm
  • Câu trả lời phải chính xác, đầy đủ dựa trên kiến thức xác thực:
    • ✔ Đối với câu hỏi trắc nghiệm: Đưa đáp án lựa chọn + giải thích lý do chọn đáp án.
    • ✔ Đối với câu hỏi tự luận: Đưa lời giải và đáp án cho câu hỏi.
    • ✔ Đối với câu hỏi trả lời ngắn: Đưa ra đáp án + giải thích lý do.
    • ✔ Chấp nhận sử dụng ảnh do thành viên viết tay, ảnh cần rõ nét, không bị mờ, vỡ ảnh.
  • Sử dụng ngôn ngữ rõ ràng, dễ hiểu.
  • Tránh đưa ra các ý kiến cá nhân mang tính chất chủ quan.
  • Nếu sử dụng thông tin từ nguồn khác, phải trích dẫn nguồn đầy đủ và chính xác.
  • Tuyệt đối không được sao chép các thông tin từ các trang khác, từ AI hoặc chatGPT.
ADS
CÂU TRẢ LỜI
avatar
Timi

10/12/2023

Trợ lý học tập AI - Câu trả lời này chỉ mang tính tham khảo
Ý kiến trên đề cập đến việc thơ có khả năng thể hiện cảm xúc, suy nghĩ và tâm trạng của con người thông qua ngôn ngữ cô động, gợi cảm, giàu hình ảnh và nhạc điệu. Bài thơ "Ánh trăng" của Nguyễn Duy và "Bếp lửa" của Bằng Việt đều là những bài thơ mà chúng ta có thể sử dụng để làm rõ ý kiến trên. Trong bài thơ "Ánh trăng" của Nguyễn Duy, ngôn ngữ được sử dụng rất tinh tế và giàu hình ảnh. Tác giả sử dụng các từ ngữ và biểu đạt để tạo ra một không gian mơ màng, lãng mạn và sâu lắng. Những hình ảnh về ánh trăng, cỏ cây, đêm tĩnh lặng... đã giúp tác giả truyền đạt thành công cảm xúc và tâm trạng của mình đến người đọc. Còn trong bài thơ "Bếp lửa" của Bằng Việt, ngôn ngữ được sử dụng mang tính chất cô động và gợi cảm. Tác giả sử dụng những từ ngữ và biểu đạt mạnh mẽ, sống động để tạo nên những hình ảnh về bếp lửa, khói, nồi cơm... Từng chi tiết nhỏ trong bài thơ đã giúp tác giả truyền đạt thành công suy nghĩ và cảm xúc của mình đến người đọc. Tổng quát, cả hai bài thơ "Ánh trăng" và "Bếp lửa" đều thể hiện ý kiến trên về việc thơ có khả năng thể hiện cảm xúc, suy nghĩ và tâm trạng con người bằng ngôn ngữ cô động, gợi cảm giàu hình ảnh và nhạc điệu.
Hãy giúp mọi người biết câu trả lời này thế nào?
1.0/5 (1 đánh giá)
thumb up 0
thumb down
0 bình luận
Bình luận
avatar
level icon
4everalone

10/12/2023

Câu trả lời uy tín

Qua bàn tay của những người nghệ nhân tài năng, đất sét cũng có thể hóa thành những sản phẩm gốm sứ cầu kỳ; qua nét cọ của những người họa sĩ cần mẫn, tuýp màu cũng có thể hóa thành những bức họa tuyệt đẹp. Cũng như qua giai đoạn định hình chất liệu, suy nghĩ và cảm xúc của nhà thơ, những ngôn từ tưởng như quen thuộc đã được sử dụng tới cùng kiệt trong đời sống hàng ngày lại có thể hóa thành những ca từ rực rỡ lấp lánh. Vì vậy có câu nói cho rằng ""Thơ thể hiện cảm xúc, suy nghĩ, tâm trạng con người bằng ngôn ngữ cô động, gợi cảm giàu hình ảnh và nhạc điệu".

Cốt lõi của thơ là cảm xúc, gắn với chiều sâu thế giới nội tâm của con người nên tác phẩm thơ là những rung động tâm hồn, suy ngẫm sâu xa, những trạng thái tâm lí của thi nhân trước thiên nhiên, cuộc sống con người. Ngôn ngữ cô đọng, gợi cảm, giàu hình ảnh và nhạc điệu: đề cập đến phương diện nghệ thuật của thơ. Ngôn ngữ thơ đòi hỏi  sự chắt lọc, gọt giũa chau chuốt tỉ mỉ; nhạc điệu của thơ  không chỉ là tính nhạc trầm bổng do cách phối thanh mà còn  là nhạc điệu của tâm hồn. Như vậy, nhận định nói lên đặc trưng của thơ là diễn tả đời sống nội tâm phong phú, sâu sắc của con người bằng ngôn ngữ, hình ảnh,… chắt lọc, biểu cảm, hấp dẫn. 

Ý kiến trên hoàn toàn chính xác vì  xuất phát từ đặc trưng của thơ ca. Văn học  phản ánh đời sống con người, với thơ ca, cuộc sống không chỉ là hiện thực xã hội bên ngoài mà còn là đời sống tâm hồn, tình cảm phong phú, là suy nghĩ, tâm trạng của chính nhà thơ. Thơ là tiếng nói của tình cảm, cảm xúc, nếu không có cảm xúc thì người nghệ sĩ không thể sáng tạo nên những vần thơ hay, những câu thơ sẽ chỉ là những xác chữ vô hồn trên trang giấy, nói như Ngô Thì Nhậm, thi sĩ phải “xúc động hồn thơ cho ngọn bút có thần”. Cảm xúc suy nghĩ trong thơ không phải là thứ cảm xúc, suy nghĩ hời hợt. Đó phải là suy nghĩ ở độ chín, tình cảm ở mức độ mãnh liệt nhất thôi thúc người nghệ sĩ cầm bút sáng tạo. Nhà thơ phải sống gắn bó với cuộc đời mới có thể viết nên những vần thơ có giá trị sâu sắc, cảm xúc đạt đến độ phổ quát nhân loại. 

Tình cảm, cảm xúc, suy ngẫm, tâm trạng của con người trong thơ phải được truyền tải bằng một hình thức nghệ thuật độc đáo, mang tính thẩm mĩ. Điều đó đem lại cho thơ vẻ đẹp hoàn mĩ.

Trong bài thơ “Ánh trăng” của Nguyễn Duy , tác giả đã gửi gắm lời tâm sự thiết tha sâu lắng, chân thành từ trong sâu thẳm tâm hồn nhà thơ; là kết tinh của tâm tư, tình cảm của nhà thơ trước cuộc đời với những vần thơ cô đọng, gợi cảm.

Trăng vốn luôn có ở trong cuộc sống. Trăng xuất hiện và gắn bó với con người qua thời gian. Trăng là người bạn tri kỉ, gắn bó sâu nặng với con người từ thuở ấu thơ. Ánh sáng vầng trăng tỏa sáng bàng bạc cả một thời niên thiếu.

Vầng trăng còn gắn bó với người lính cả trong những năm tháng gian khổ của chiến tranh. Con người tự nhủ với lòng mình sẽ chung thủy, sắt son với trăng. Con người tự hứa sẽ “không bao giờ quên” cái vầng trăng tươi đẹp, hiền hòa và tình nghĩa ấy.

Không gian và thời gian đó là khi con người còn ở trong cuộc chiến đấu chống kẻ thù. Khi mà giữa con người và thiên nhiên có một mối giao cảm lớn. Thiên nhiên che chở cho đời sống con người. Con người nương tựa vào thiên nhiên để tìm kiếm nguồn sức mạnh sinh tồn.

Khi hoàn cảnh thay đổi, tất cả đều diễn biến theo chiều hướng tất yếu của nó. Kẻ thù bị tiêu diệt, chiến tranh lùi xa, người lính trở về với cuộc sống hòa bình. Rời khỏi nhiệm vụ, rời khỏi hoàn cảnh khốn khó, tình cảm của con người đối với thiên nhiên cũng đổi khác.

Vầng trăng – người bạn chung tình thuở trước, đã trở thành “người dưng qua đường”. Con người đã không còn tha thiết và gắn bó với vầng trăng thiên nhiên nữa. Vầng trăng bây giờ đối với người lính năm xưa giờ chỉ là dĩ vãng. Một dĩ vãng nhạt nhòa của quãng thời gian xa xôi nào đó. Trước cuộc sống đầy tiện nghi, con người trở nên ích kỉ. Họ miệt mài đi tìm cuộc sống giàu có và đắm mình trong sự hưởng thụ ấy. Vầng trăng tình nghĩa năm xưa đã bị lãng quên một cách phũ phàng.

Và khi sự cố mất điện xảy đến. Bất ngờ, con người trở lại với không gian quen thuộc ngày xưa. Họ chợt nhận ra sự vô tình của mình khi nhìn thấy vầng trăng trên trời cao. Ánh trăng tình nghĩa vẫn tròn đầy, không hao khuyết. Ánh trăng vẫn như thuở nào, không có gì thay đổi.

Chính cái khoảnh khắc bất ngờ ấy đã tạo nên bước ngoặt lớn trong mạch cảm xúc của nhà thơ. Sự xuất hiện bất ngờ của vầng trăng khiến nhà thơ ngỡ ngàng, bối rối. Nó gợi cho nhà thơ biết bao kỉ niệm nghĩa tình. Khiến cho ông vừa vui mừng, vừa tủi hổ.

Cuộc gặp gỡ bất ngờ mà kỳ diệu, có sức mạnh cảnh tỉnh mọi tâm hồn. Nó khiến con người thấy “rưng rưng” nước mắt. “Rưng rưng” của những niềm thương nỗi nhớ. Ngậm ngùi của những lãng quên, lạnh nhạt với người bạn cố tri. Xót xa của một lương tri đang thức tỉnh sau những ngày đắm chìm trong cõi u mê mộng mị. “Rưng rưng” của nỗi ân hận, ăn năn về thái độ của chính mình đã quá hững hờ trong suốt thời gian qua. Một chút áy náy, một chút tiếc nuối, một chút xót xa đau lòng cuộn thắt. Tất cả đã làm nên thổn thức mãnh liệt trong sâu thẳm trái tim người lính. Cái cảm giác ray rứt ấy cũng đánh thức trong lòng người đọc bao sự đồng cảm sâu xa.

Ánh sáng của vầng trăng sáng giống như một thứ nước màu soi rọi và làm hiện hình những điều ẩn khuất, bị chìm lấp bấy lâu. Ánh trăng đánh thức những kỷ niệm xa xưa. Vầng trăng khắc nhớ về quá khứ xa và gần. Vầng trăng gợi nhớ về quê hương và đất nước; về thiên nhiên và cuộc sống. Đối diện với vầng trăng là đối diện với những phần đời đẹp nhất.

“Ánh trăng” là lời tự nhủ và nhắn gửi về thái độ sống tri ân, tình nghĩa cùng quá khứ. Trăng vẫn chiếu sáng trên bầu trời, mặc cho thời gian trôi đi. Trăng cứ“tròn vành vạnh”, dẫu cho “người vô tình”. Cái tròn đầy của trăng là biểu tượng cho nghĩa tình, thủy chung. Cái im lặng của trăng là sự bao dung, độ lượng và thái độ nghiêm khắc. Nó làm con người trăn trở, suy ngẫm. Để rồi họ nhận ra sự vô tình, bội bạc của mình.

Chính cái “im phăng phắc, đủ cho ta giật mình” của vầng trăng đã đánh thức tâm hồn con người. Nó làm xáo động trái tim người lính năm xưa. Người lính “giật mình” trước ánh trăng là sự bừng tỉnh của nhân cách. Người lính “rưng rưng” là sự trở về với lương tâm trong sạch và tốt đẹp. Đó là lời ăn năn, day dứt, có giá trị làm đẹp con người.

Vượt lên trên tất cả, ánh trăng còn nhắc nhở người đọc về thái độ sống thủy chung, ân nghĩa trong cuộc đời này. Nó không chỉ là chuyện của một người, một thế hệ. Đó còn là chuyện của nhiều người, nhiều thế hệ, của nhân dân, của đất nước. Nó có ý nghĩa gợi nhắc và cảnh tỉnh cho mọi người phải sống tốt đẹp; sống xứng đáng với những người đã khuất; sống trung thực với chính mình. Sống phải biết trân trọng quá khứ để vững bước tới tương lai. Bài thơ nói chuyện trăng là để nói chuyện đời, chuyện người, chuyện tình nghĩa của kiếp người đó thôi.

Với giọng điệu tâm tình tự nhiên, hình ảnh giàu tính biểu cảm, bài thơ gợi nhắc về lối sống đẹp, ân nghĩa, thủy chung. Bài thơ là một lời tự nhắc nhở của tác giả về những năm tháng gian lao của cuộc đời người lính gắn bó với thiên nhiên, đất nước bình dị, hiền hậu. Ý thơ gợi nhắc, củng cố ở người đọc thái độ sống “uống nước nhớ nguồn”, ân nghĩa thủy chung cùng quá khứ.

Qua những rung động chân thành mà thiết tha của Nguyễn Duy, người đọc cũng tự nhận ra chính mình trong dòng thời gian khắc nghiệt. Đã biết bao lần ta cũng vô tình, lãng quên như thế. Đã biết bao lần ta đã vô tâm, thờ ơ, lạnh nhạt với quá khứ nghĩa tình. Biết bao lần ta nhẫn tâm phủ nhận truyền thống. Thậm chí là dẫm đạp lên những giá trị mà trước đây vốn đã mang đến cho ta biết bao tốt đẹp.

Người đọc cũng như Nguyễn Duy vội vàng và hoang mang đi tìm. Họ sững sờ khi nhìn lại chính mình trong tủi hổ và xót xa. Tất cả cùng “rưng rưng” muốn khóc khi đối diện với chính mình trong một niềm tâm cảm dạt dào.

Nguyễn Duy qua những câu thơ bình dị đã truyền được suy nghĩ của ông trước cuộc đời đến người đọc. Một nỗi niềm suy tư quá quen thuộc nhưng mấy ai nghĩ đến. Và có biết bao người cũng đã “rưng rưng” khi nhìn ngắm vầng trăng hay một biểu tượng nào đó của quá khứ nghĩa tình. Không cần nói nhiều lời, chỉ bằng hình tương, tác phẩm đã “truyền cho mọi người sự sống mà nghệ sĩ mang trong lòng”.

Còn với “Bếp lửa” của Bằng Việt, ta có thể cảm nhận được tình cảm thắm thiết của người cháu dành cho bà cũng như nỗi nhớ bà khôn nguôi của tác giả.

Hình ảnh bà hiện ra trong kí ức của nhà thơ là ở trong căn bếp của bà:

"Một bếp lửa chờn vờn sương sớm
Một bếp lửa ấp iu nồng đượm"

Từ láy "chờn vờn" trong hình ảnh bếp lửa gợi liên tưởng đến trong kí ức của người cháu hình ảnh bà và bếp lửa của bà hiện về chập chờn như khói bếp. Điệp từ "Một bếp lửa" có tác dụng nhấn mạnh cái bếp lửa để nấu cơm, đun nước hằng ngày cũng như là bếp lửa của cuộc đời bà, đã trải qua biết mấy nắng mưa: "Cháu thương bà biết mấy nắng mưa". Từ chỉ số lượng "một" khắc họa rõ nét hình ảnh bếp lửa của một người bà yêu thương cháu, một mình bà chứ không phải ai khác. Chính trong cái bếp lửa "ấp iu nồng đượm" ấy, người cháu được sống trong tình yêu thương của bà, được bà chở che cả tuổi thơ, cho nên tác giả rất yêu thương người bà của mình.

Nhà thơ gắn liền với một tuổi thơ cơ cực, thiếu thốn trong những năm tháng hai bà cháu sống cùng nhau:

"Lên bốn tuổi cháu đã quen mùi khói
Năm ấy là năm đói mòn đói mỏi
Bố đi đánh xe khô rạc ngựa gầy
Chỉ nhớ khói hun nhèm mắt cháu
Nghĩ lại đến giờ sống mũi còn cay!"

Tác giả là một trong những đứa trẻ phải trải qua những năm tháng vất vả, cơ cực đến mức đói mòn, đói mỏi của cả dân tộc. Hình ảnh khói bếp của bà được nhắc đến trong suốt khổ thơ cho thấy sự thấm sâu vào tâm hồn đứa trẻ của khói bếp. Chính những năm tháng vất vả, thiếu thốn ấy, nhà thơ mới càng thêm trân trọng tình cảm của bà dành cho mình. Nghĩ về những điều đó, nhà thơ thấy sống mũi cay cay, như rưng rưng xúc động trước một quá khứ gian khổ nhưng thấm đẫm tình yêu thương của bà.

Những kỉ niệm về bà được tác giả kể lại lần lượt ở những câu thơ tiếp theo:

"Tám năm ròng cháu cùng bà nhóm lửa
Tu hú kêu trên những cánh đồng xa
Khi tu hú kêu bà còn nhớ không bà?
Bà thường kể chuyện những ngày ở Huế
Tiếng tu hú sao mà tha thiết thế!"

Tám năm là một khoảng thời gian tương đối dài, đủ để hình thành nên tuổi thơ của mỗi con người. Trong tám năm ở cùng với bà đó, nhà thơ đã trải qua biết bao nhiêu kỉ niệm cùng với bà. Hình ảnh tiếng tu hú kêu như giục giã những cây lúa ngoài đồng mau chín, để bà con người nông dân không phải chịu đựng cái đói thêm một ngày nào nữa. Và khi tu hú kêu cũng là lúc người cháu được nghe bà kể chuyện của bà ngày trước, là những thứ tạo nên kí ức ngày hôm nay của tác giả. Từ "tu hú" được lặp lại đến ba lần với tiếng kêu tha thiết, như đang vang vọng đâu đây trong kí ức của tác giả. Kí ức ấy không hề đầy đủ cả mẹ và cha:

"Mẹ cùng cha công tác bận không về
Cháu ở cùng bà, bà bảo cháu nghe
Bà dạy cháu làm, bà chăm cháu học"

Dù nhà thơ phải chịu sự thiếu thốn tình cảm của cha mẹ nhưng bù lại vẫn nhận được sự yêu thương vô bờ của bà. Bà đã thay cha mẹ dạy dỗ cháu nên người, bà dạy cho cháu làm những công việc nhà, bà bảo ban cháu cố gắng học tập. Tất cả đều xuất phát từ tấm lòng yêu thương, sự chở che, đùm bọc của bà dành cho cháu. Đến đây, nhà thơ lại bộc lộ cảm xúc thương xót cho sự vất vả, khó nhọc của bà:

"Nhóm bếp lửa nghĩ thương bà khó nhọc
Tu hú ơi chẳng đến ở cùng bà
Kêu chi hoài trên những cánh đồng xa?"

Bếp lửa của cuộc đời bà khơi dậy trong tâm hồn người cháu một tình yêu thương và tha thiết, một sự biết ơn đối với bà. Bếp lửa còn gắn liền với tiếng tu hú. Hình ảnh "tu hú" lại được lặp lại cho thấy nó đã đi sâu vào tiềm thức của nhà thơ, khi nhớ về bà và bếp lửa của bà thì nhà thơ cũng nhớ tới âm thanh của con tu hú. Tiếng tu hú kêu da diết, khắc khoải như khiến cho tác giả nhớ về những kỉ niệm ngày xưa.

Nếu ở trong những dòng thơ đầu, nhà thơ tái hiện lên cho người đọc những hình ảnh và kỉ niệm của tác giả với bà và bếp lửa của bà thì ở những dòng thơ sau, nhà thơ Bằng Việt lại làm hiện lên những kí ức đau thương mà có lẽ cho đến hiện tại, tác giả vẫn khó có thể quên được.

Nhận định trên đã chỉ ra đặc trưng của thể loại thơ ở cả hai phương diện nội dung và nghệ thuật. Cụ thể tình cảm, cảm xúc, suy nghĩ, tâm trạng của con người trong thơ phải được thể hiện qua một hình thức nghệ thuật độc đáo.

Bài thơ "Ánh trăng" của Nguyễn Duy và "Bếp lửa" của Bằng Việt là minh chứng tiêu biểu cho qua điểm “Thơ thể hiện cảm xúc, suy nghĩ, tâm trạng con người bằng ngôn ngữ cô đọng, gợi cảm giàu hình ảnh và nhạc điệu”. 

Qua đó, ta rút ra bài học đối với người sáng tác và người tiếp nhận . Đối với người sáng tác: Cần phải có cái Tài và cái Tâm, phải dày công sáng tạo trau chuốt ngôn từ, chọn lọc hình ảnh; phải có những rung động tinh tế, những cảm xúc, suy nghĩ chân thành, gắn bó sâu sắc với cuộc đời, con người để tác phẩm thơ thật sự đặc sắc  về nghệ thuật và sâu sắc về nội dung tư tưởng. Đối với người đọc: Hướng tới Chân – Thiện – Mĩ, bồi dưỡng tâm hồn, tình cảm trong sáng, trí tuệ phong phú thỏa mãn nhu cầu thẩm mĩ để cảm nhận được cảm xúc, tư tưởng của tác giả trong tác phẩm, từ đó trở thành bạn đọc đồng sáng tạo với người sáng tác.

 

Hãy giúp mọi người biết câu trả lời này thế nào?
5.0/5 (1 đánh giá)
thumb up 1
thumb down
0 bình luận
Bình luận
ADS
avatar
level icon
ZenoVn

10/12/2023

Nguyễn Tâm

Ý kiến trên đề cập đến việc thể hiện cảm xúc, suy nghĩ và tâm trạng con người qua thơ bằng ngôn ngữ cô động, gợi cảm giàu hình ảnh và nhạc điệu. Bài thơ "Ánh trăng" của Nguyễn Duy và "Bếp lửa" của Bằng Việt có thể làm sáng tỏ ý kiến này.

Trong bài thơ "Ánh trăng", Nguyễn Duy đã sử dụng ngôn ngữ tươi đẹp, giàu hình ảnh để miêu tả vẻ đẹp và sức mạnh của ánh trăng. Những từ ngữ như "huyền diệu", "lấp lánh", "sáng rỡ" đã tạo ra một hình ảnh mê hoặc và lãng mạn. Những âm điệu trong bài thơ này cũng mang lại cảm giác êm dịu và thư thái, tạo nên một không gian tĩnh lặng và sâu lắng.

Trong khi đó, bài thơ "Bếp lửa" của Bằng Việt lại sử dụng ngôn ngữ mạnh mẽ và cô động để thể hiện tâm trạng của con người. Những từ ngữ như "lửa cháy", "nồng nàn", "hừng đông" đã tạo ra một hình ảnh sôi động và nhiệt huyết. Những nhịp điệu trong bài thơ này cũng mang lại cảm giác mạnh mẽ và sôi động, tạo nên một không gian nhiệt huyết và đầy sức sống.

Tổng quan, cả hai bài thơ "Ánh trăng" và "Bếp lửa" đều thể hiện được ý kiến trên về việc sử dụng ngôn ngữ cô động, gợi cảm giàu hình ảnh và nhạc điệu để thể hiện cảm xúc, suy nghĩ và tâm trạng con người. Mỗi bài thơ mang đến một trạng thái tâm trạng khác nhau, nhưng đều thành công trong việc gợi lên những hình ảnh và âm điệu tương ứng để tạo nên một trải nghiệm tinh thần đặc biệt cho người đọc.

Hãy giúp mọi người biết câu trả lời này thế nào?
3.5/5 (2 đánh giá)
thumb up 0
thumb down
0 bình luận
Bình luận

Nếu bạn muốn hỏi bài tập

Các câu hỏi của bạn luôn được giải đáp dưới 10 phút

Ảnh ads

CÂU HỎI LIÊN QUAN

logo footer
FQA.vn Nền tảng kết nối cộng đồng hỗ trợ giải bài tập học sinh trong khối K12. Sản phẩm được phát triển bởi CÔNG TY TNHH CÔNG NGHỆ GIA ĐÌNH (FTECH CO., LTD)
Điện thoại: 1900636019 Email: info@fqa.vn
Location Địa chỉ: Số 21 Ngõ Giếng, Phố Đông Các, Phường Ô Chợ Dừa, Quận Đống Đa, Thành phố Hà Nội, Việt Nam.
Tải ứng dụng FQA
app store ch play
Người chịu trách nhiệm quản lý nội dung: Nguyễn Tuấn Quang Giấy phép thiết lập MXH số 07/GP-BTTTT do Bộ Thông tin và Truyền thông cấp ngày 05/01/2024
Copyright © 2023 fqa.vn All Rights Reserved
gift-box
survey
survey
Đặt câu hỏi