phân tích đoạn văn ‘ hùng vĩ sông Đà không phải…. vừa rút lên cái gậy đánh phèn’ . nêu cảm nhận về vẻ đẹp, hình tượng của đoạn trích Câu hỏi phụ: Từ đó nhận xét về cách nhìn mang tính phát hiện về dòng...

ADS
thumb up 0
thumb down
Trả lời câu hỏi của thhiin
  • Câu trả lời phải chính xác, đầy đủ dựa trên kiến thức xác thực:
    • ✔ Đối với câu hỏi trắc nghiệm: Đưa đáp án lựa chọn + giải thích lý do chọn đáp án.
    • ✔ Đối với câu hỏi tự luận: Đưa lời giải và đáp án cho câu hỏi.
    • ✔ Đối với câu hỏi trả lời ngắn: Đưa ra đáp án + giải thích lý do.
    • ✔ Chấp nhận sử dụng ảnh do thành viên viết tay, ảnh cần rõ nét, không bị mờ, vỡ ảnh.
  • Sử dụng ngôn ngữ rõ ràng, dễ hiểu.
  • Tránh đưa ra các ý kiến cá nhân mang tính chất chủ quan.
  • Nếu sử dụng thông tin từ nguồn khác, phải trích dẫn nguồn đầy đủ và chính xác.
  • Tuyệt đối không được sao chép các thông tin từ các trang khác, từ AI hoặc chatGPT.
ADS
CÂU TRẢ LỜI
avatar
level icon
minhhi

29/12/2023

Câu trả lời uy tín

"Dù ong phải bay ngàn cánh bay mới nên giọt mật

Hay tằm giam mình tại chỗ nhả ra tơ

Trong sáng tạo, chúng ở đầu hai cực

Nào con nào đã được nhởn nhơ.."

(Thơ bình phương - Đời lập phương - Chế Lan Viên)

Thật vậy, bản chất của lao động nghệ thuật là sáng tạo. Và lao động nghệ thuật chưa bao giờ là dễ dàng: Thầm lặng. Chán nản. Đơn độc. Vất vả. Giằng xé. Mỗi một tác phẩm chân chính ra đời là sự lao động miệt mài không ngừng nghỉ, là kếtquả của quá trình dấn thân, nhập cuộc, tích lũy, một quá trình cọ xát dữ dội của người nghệ sĩ. Và Nguyễn Tuân cũng không nằm ngoài điều đó. Ông đã viết nên tập "Sông Đà" mà linh hồn của nó chính là tùy bút "Người lái đò sông Đà". Thưởng thức bài kí, độc giả không khỏi ấn tượng với vẻ đẹp hùng vĩ, hung bạo của dòng sông, từ đó, ta thấy được cách nhìn mang tính phát hiện về dòng sông Đà và cái Tôi của nhà văn:

"Hùng vĩ của sông Đà không phải chỉ có thác đá. [..] truyền cảm lại cho người xem phim kí sự thấy mình đang lấy gân ngồi giữ chặt ghế như ghì lấy mép một chiếc lá rừng bị vứt vào một cốc pha lê nước khổng lồ vừa rút lên cái gậy đánh phèn."

Là cây đại thụ của rừng đầu nguồn Việt Nam, Nguyễn Tuân được mệnh danh là "nhà văn suốt đời đi tìm cái đẹp". Trước và sau cách mạng, câu bút ấy luôn thể hiện vẻ đẹp của lối viết tài hoa, uyên bác, độc đáo, phóng túng. Tùy bút "Người lái đò sông Đà" in trong tập "Sông Đà" (1960) là một tiêu biểu. Tác phẩm là kết quả của chuyến đi thực tế gian khổ và đầy hào hứng của tác giả đến vùng Tây Bắc xa xôi hòng kiếm tìm "chất vàng mười" trong thiên nhiên và con người nơi đây. Sông Đà trong cái nhìn của Nguyễn Tuân như một thực thể sống động vừa mang vẻ đẹp hùng vĩ của thác, nước, đá; vừa mang vẻ đẹp trữ tình, thơ mộng. Đoạn trích trên khắc họa vẻ đẹp hùng vĩ của dòng sông.

Đoạn văn bản nằm ở phần đầu tác phẩm, miêu tả vẻ đẹp hung vĩ, dữ dội của sông Đà qua diện mạo cảnh "đá bờ sông", "ghềnh đá", "hút nước". Qua đó, ta thấy được cách nhìn mang tính phát hiện về dòng sông Đà và cái Tôi của nhà văn Nguyễn Tuân.

Nguyễn Tuân – người nghệ sĩ ấy đã đóng vai trò của một nhà địa lí học, đi đến tận cùng để tìm hiểu, để đưa vào trang văn của mình những thông tin chính xác về hình tượng sông Đà. Qua những trang viết tài hoa, con sông thơ mộng và dữ dội đã trở thành dòng chảy huyền thoại, người lái đò vật lộn với thác lũ đã trở thành dũng sĩ. Nguyễn Tuân luôn là như vậy, đã cầm bút viết là phải đi đến tận cùng của cái đẹp, không ưa những gì bằng phẳng, phải chọn cho mình những tích cách phi thường và ông đã đến với sông Đà như một điều tất yếu. Qua những trang văn của người nghệ sĩ, bạn đọc biết đến khai sinh của dòng sông để biết sông Đà ở huyện Canh Đông – tỉnh Vân Nam (Trung Quốc) lấy tên gọi ban đầu là Ly Tiên, khi đi qua một vùng núi Ác đến nửa đường thì xin nhập quốc tịch Việt Nam, trưởng thành mãi lên đến ngã ba Trung Hà thì nhập vào với sông Hồng. Có thể thấy rằng, tuy không phải là một nhà địa lí học, nhưng tất cả kiến thức Nguyễn Tuân đem đến cho ta qua trang văn của mình đều là những kiến thức bổ ích và có giá trị nghiên cứu cao. Bên cạnh đó, ông còn phát hiện ra một đặc điểm của con sông này và thể hiện nó đầy đủ trên trang viết qua lời đề từ: "Chúng thủy giai đông tẩu/ Đà giang độc bắc lưu" có ý nghĩa là mọi dòng sông đều đổ theo hướng Đông, duy chỉ có sông Đà chảy theo hướng Bắc. Chi tiết ấy cho ta thấy sự khác biệt của dòng sông này, nó rất phù hợp với tạng văn, tạng người của Nguyễn Tuân.

Nhận xét đầu tiên của nhà văn về dòng sông Đà ở đây là "Hùng vĩ của sông Đà không phải chỉ có những thác đá". Câu văn đã khẳng định sông Đà là dòng sông hùng vĩ và hẳn là vẻ hùng vĩ ấy được thể hiện rõ nhất ở những thác đá trên sông. Nhưng hùng vĩ của sông Đà không chỉ có thế mà còn thể hiện rõ qua cảnh đá bờ sông dựng vách thành, những ghềnh sông, hút nước được miêu tả trong đoạn trích.

Trước hết, hình tượng sông Đà được nhà văn khắc họa qua cảnh bờ sông "dựng vách thành":

Sông Đà ở quãng này chảy qua vùng rừng núi Tây Bắc và hình ảnh "vách thành" đã phần nào thể hiện sự vững chãi thâm nghiêm và sức mạnh bí ẩn đầy đe dọa của những vách núi bên bờ sông Đà. Tác giả đã dùng những chi tiết tưởng như bâng quơ, ngẫu nhiên nhưng lại có giá trị gợi tả gián tiếp độ hẹp của dòng sông, độ cao của vách đá. Chẳng hạn, mặt sông chỗ ấy chỉ lúc đúng ngọ mới có mặt trời . Những vách đá dựng đứng khiến ánh sáng mặt trời ở đây chỉ có vào lúc giữa trưa, tức là khi mặt trời chiếu sáng theo phương thẳng đứng mới có thể lọt xuống dòng sông. Hoặc cách so sánh vách đá thành chẹt lòng sông Đà như một cái yết hầu – động từ "chẹt" cùng với việc đứng bên này bờ nhẹ tay ném hòn đá qua bên kia vách hoặc Có quãng con nai con hổ đã có lần vọt từ bờ này sang bờ kia đã đem đến ấn tượng mãnh liệt cho người đọc về độ hẹp của lòng sông với lưu tốc nước chảy mạnh khi bị vách đá chèn ép tới nghẹt thở. Nguyễn Tuân là nhà văn của những cảm giác mạnh và ông thường miêu tả thế giới sự vật thông qua cảm giác. Bằng cảm giác của xúc giác nhà văn miêu tả ngồi trong khoang đò qua quãng ấy, đang mùa hè mà cũng thấy lạnh . Ấn tượng của thị giác được thể hiện khi lấy hè phố để miêu tả mặt sông, lấy nhà cao gợi tả vách đá, truyền cho người đọc những hình dung về cái tăm tối lạnh lẽo đột ngột khi con thuyền đi từ ngoài vào khúc sông có đá hun hút dựng vách thành qua hình ảnh so sánh về một khung cửa sổ nào trên cái tầng thứ mấy nào vừa tắt phụt đèn điện .

Như vậy bằng một đoạn văn ngắn, chỉ có sáu câu văn, nhà văn Nguyễn Tuân đã người đọc trở về với thiên nhiên Tây Bắc hùng vĩ, dữ dội. Trong sáu câu văn ấy có đến 3 câu kết thúc bằng thanh trắc gợi cảm giác về độ cao của bờ đá, tốc độ của dòng nước và độ lạnh của hơi nước Sông Đà. Với tài quan sát và trí tưởng tượng độc đáo, Nguyễn Tuân đã để lại ấn tượng khó phai về cảnh bờ đá bên sông.

Không chỉ hung vĩ ở cảnh đá bờ sông, hình tượng sông Đà còn được miểu tả ở mặt ghềnh Hát Lóong:

Dòng sông Đà lắm thác nhiều ghềnh vốn đã từng được nhắc đến trong ca dao:

Đường lên Mường Lễ bao xa

Trăm bảy cái thác, trăm ba cái ghềnh

Nhà văn Nguyễn Tuân trong tác phẩm có thể kể vanh vách hơn bảy mươi cái thác trên sông Đà. Đáng chú ý, ở quãng Hát Loóng có những ghềnh sông mà cảnh tượng của nó rất dữ dội Lại như quãng mặt ghềnh Hát Loóng, dài hàng cây số nước xô đá, đá xô sóng, sóng xô gió, cuồn cuộn luồng gió gùn ghè suốt năm.. Thông qua sự miêu tả của Nguyễn Tuân, những ghềnh sông ấy không chỉ dữ dội mà còn đầy nguy hiểm. Để miêu tả mặt ghềnh Hát Lóong nhà văn đã dùng câu văn dài với nhiều vế câu, nó dài như mặt ghềnh. Đã vậy, tác giả còn sử dụng thủ pháp nghệ thuật điệp từ nước, đá, sóng cộng với điệp ngữ và sự hỗ trợ liên tiếp của các thanh trắc (24/46 thanh) đã tạo nên âm điệu dữ dội, nhịp điệu khẩn trương, dồn dập như vừa xô đẩy vừa hợp sức của gió, của sóng và đã khiến cho cả ghềnh sông như sôi lên sùng sục cuồn cuộn chảy dữ dằn. Chính sự kết hợp ấy đã tạo ra mối nguy hiểm thường trực đối với bất cứ người lái đò nào đi ngang qua ghềnh sông như thế. Bởi chỉ cần khinh suất tay lái là con thuyền bị lật ngửa thuyền ra. Đoạn văn miêu tả ghềnh Hát Loong rất ngắn, chỉ có hai câu tương đương với bốn dòng, Nguyễn Tuân đã làm sống dậy cả một mặt ghềnh dài nhất, dữ dội nhất. Ở đoạn văn này tác giả còn sử dụng biện pháp tu từ nhân hóa "đòi nợ xuýt" để nhấn mạnh tính cách hung hăng, côn đồ của ghềnh Hát Loong. Qua từ "nợ xuýt", nhà văn đóng góp thêm vào Từ điển tiếng Việt một từ mới mẻ, độc đáo vì nợ không có vẫn đòi, không đòi bằng tiền, bằng tình mà đòi bằng mạng sống của con người.

Qua đoạn văn, Chúng ta thấy Nguyễn Tuân xứng đáng là bậc thầy của ngôn từ. Khi cần ông huy động cả một đội quân ngôn từ hùng hậu nhưng có khi ông chỉ sử dụng một tiểu đội đặc công tinh nhuệ cũng khiến con Sông Đà hiện nguyên hình là một thuồng luồng thủy quái, là mối nguy hiểm thường trực đối với ông lái đò. Đó chính là vẻ đẹp tài hoa, bản lĩnh đáng khâm phục của một nhà văn có phong cách nghệ thuật độc đáo.

Sự hung bạo của con Sông Đà còn được thể hiện ở những cái hút nước chết người:

"Những cái hút nước giống như cái giếng bê tông thả xuống để chuẩn bị làm móng cầu". "Nước ở đây thở và kêu như cửa cống cái bị sặc", khi thì "ặc ặc lên như vừa rót dầu sôi vào". Với trí liên tưởng bất ngờ, nhà văn Nguyễn Tuân đã giúp người đọc cảm nhận dược sự ghê gớm, độc ác của cái hút nước, nó như huyệt mộ được đào sẵn ở dưới lòng sông để chôn vùi những con thuyền nào đi qua đây. Điều đáng nói, cái hút nước ở đây có sức mạnh ghê gớm, khi nó "xoáy tít đáy", "lừ lừ những cánh quạ đàn". Sức mạnh ấy nó có thể "lôi tuột những cái thuyền ghênh ngang đi qua, thuyền trồng cây chuối ngược ngược rồi vụt biến bị dìm và đi ngầm dưới lòng sông, mươi phút sau thì tan xác ở khuỷnh sông dưới". Rõ ràng, hút nước trên Sông Đà giống như một con thuồng luồng, thủy quái lúc thì như một cài vòi rồng trong trận cuồng phong, khi thì như cái cối xay thịt khổng lồ giữa núi rừng Tây Bắc. Sức mạnh của nó thật ghê gớm có thể nghiền nát bất cứ con thuyền nào trong khoảng thời gian sớm nhất. Với việc sử dụng kiến thức của lĩnh vực giao thông vận tải, điện ảnh để tô đậm mức độ khủng khiếp của cái hút nước, nhà văn Nguyễn Tuân đã tưởng tượng ra một anh chàng quay phim táo bạo nào đó muốn truyền cho người xem một cảm giác lạ đã dũng cảm ngồi vào chiếc thuyền thúng tròn vành rồi cả người và cả máy xuống cái hút nước ấy mà quay ngược lên. Nếu xem những thước phim ấy mọi người phải phải lên gân để giữ chặt chiếc ghế. Với sự liên tưởng độc đáo, nhà văn Nguyễn Tuân đa tiên phong xây dựng thước phim 3D rất sống động có một không hai trong lịch sử văn học.

Nếu như miêu tả cảnh bờ đá bên sông và ghềnh Hát Loong nhà văn Nguyễn Tuân rất kiệm lời thì khi miêu tả hút nước Sông Đà ông đã huy động vốn hiểu biết phong phú, vốn kiến thức ở nhiều lĩnh vực cùng đội quân ngôn từ hùng hậu để miêu tả tận cùng sự dữ dội của hút nước Sông Đà. Với việc sử dụng phép so sánh nhiều lần: Như cái giếng bê tông.. như cửa cống cái bị sắc, lừ lừ như những cánh quạ đàn, như ô tô sang ga nhấn số, như rót dầu sôi vào, như một cốc nước pha lê khổng lồ.. chính sự so sánh ấy giúp cho câu văn thêm gợi hình, gợi cảm để người đọc hình dung sự dữ dằn của cái hút nước đã trở thành một thử thách không nhỏ đới với ông lái đò.

Bằng thể tùy bút phóng túng, vốn kiến thức phong phú, đa dạng trên nhiều lĩnh vực, tác giả đã khám phá vẻ đẹp của dòng sông ở góc độ địa lí nhưng đậm chất văn chương, kết hợp với nhiều ngành nghệ thuật khác như giao thông, âm nhạc, hội họa, điện ảnh, đầy ấn tượng; Sự quan sát tỉ mỉ, sự liên tưởng, tưởng tượng phong phú, ngôn ngữ tài hoa, điêu luyện giàu chất thơ, chất nhạc, chất tạo hình; Cách sử dụng nghệ thuật khắc họa hình tượng tự nhiên, những ví von, so sánh, liên tưởng, tưởng tượng độc đáo, bất ngờ và rất thú vị; Từ ngữ phong phú, sống động, giàu hình ảnh và có sức gợi cảm cao; Câu văn đa dạng, nhiều tầng, giàu nhịp điệu, lúc thì hối hả, gân guốc, khi thì chậm rãi, trữ tình.. tác giả đã biến con sông đà từ vô tri vô giác thành con sông có những nét cá tính riêng biệt mà không con sông nào có.

Qua đoạn trích trên, ta cũng thấy được những phát hiện về dòng sông Đà của nhà văn Nguyễn Tuân. Tả sự hung bạo của sông Đà, tác giả không chỉ dừng lại ở hình ảnh một dòng sông ở miền đất Tây Bắc hoang sơ hùng vĩ mà nhằm làm nổi bật sông Đà như một biểu tượng về sức mạnh dữ dội và vẻ đẹp hùng vĩ, hoang sơ của thiên nhiên, đất nước. Qua cái nhìn của Nguyễn Tuân, Sông Đà không còn là con sông vô tri, vô giác mà là con sông có linh hồn, có cá tính như con người: Hung bạo, dữ dằn, hùng vĩ. Sông Đà hiện lên như một công trình kiến trúc tuyệt vời mà tạo hóa dành riêng cho mảnh đất Tây Bắc. Nó còn như một sinh thể có hồn, gần gũi, gắn bó với đất và người nơi đây. Qua hình tượng Sông Đà, Nguyễn Tuân thể hiện tình yêu mến tha thiết đối với thiên nhiên đất nước. Với ông, thiên nhiên cũng là một tác phẩm nghệ thuật vô song của tạo hóa.

"Nghệ thuật là lĩnh vực của cái độc đáo". Những tác phẩm đạt đến chuẩn mực của cái hay cái đẹp sẽ "vượt qua mọi sự bang hoại của thời gian" để sống mãi trong lòng bạn đọc. Cũng như dù thời gian có chảy trôi nhưng giá trị tác phẩm "Người lái đò sông Đà" của nhà văn Nguyễn Tuân vẫn nguyên vẹn và tỏa sáng.

"Riêng những câu thơ còn xanh

Riêng những bài hát còn xanh

Và đôi mắt em

Hai giếng nước."

Thời gian - Văn Cao

Hãy giúp mọi người biết câu trả lời này thế nào?
0/5 (0 đánh giá)
thumb up 0
thumb down
0 bình luận
Bình luận
ADS

Nếu bạn muốn hỏi bài tập

Các câu hỏi của bạn luôn được giải đáp dưới 10 phút

Ảnh ads

CÂU HỎI LIÊN QUAN

logo footer
FQA.vn Nền tảng kết nối cộng đồng hỗ trợ giải bài tập học sinh trong khối K12. Sản phẩm được phát triển bởi CÔNG TY TNHH CÔNG NGHỆ GIA ĐÌNH (FTECH CO., LTD)
Điện thoại: 1900636019 Email: info@fqa.vn
Location Địa chỉ: Số 21 Ngõ Giếng, Phố Đông Các, Phường Ô Chợ Dừa, Quận Đống Đa, Thành phố Hà Nội, Việt Nam.
Tải ứng dụng FQA
app store ch play
Người chịu trách nhiệm quản lý nội dung: Nguyễn Tuấn Quang Giấy phép thiết lập MXH số 07/GP-BTTTT do Bộ Thông tin và Truyền thông cấp ngày 05/01/2024
Copyright © 2023 fqa.vn All Rights Reserved
gift-box
survey
survey
Đặt câu hỏi