07/01/2024
07/01/2024
Không biết thơ ca sinh ra tự thuở nào, nhưng nó đã được biết đến, bàn đến rất nhiều. Có lẽ bởi thơ ca là hình thái nghệ thuật dễ đi vào lòng người nhất, dễ rung cảm bể cả tình người nhất. Điều làm cho thơ ca có sức quyến rũ như vậy? Bởi thơ ca được chưng cất lên từ nước biển, nó nói hộ bao cung bậc tình cảm con người , có thể điển hình là bài thơ Tiếng hát con tàu của ông. Vì thế, Chế Lan Viên cho rằng:
"Hãy biết ơn vị muối của đời cho thơ chất mặn!”
Chế Lan Viên đã đề cập đến vấn đề quan hệ giữa “đời” và ”thơ”.
Tư tưởng của những nhà thơ, nhà văn chân chính đã gặp nhau. Tất cả mọi hình thái nghệ thuật đều bắt nguồn từ trực quan sinh động qua lăng kính của nhà văn nhà thơ rồi mới phản chiếu vào tác phẩm. Vị muối” cuộc đời ấy là hiện thực cuộc sống, là những trăn trở, lo âu, buồn phiền, sung sướng, hạnh phúc…Là nhà thơ chân chính, anh phải lăn lộn ngoài cuộc đời sương gió kia, phải cảm nhận hết nỗi đau, niềm vui, hạnh phúc của con người rồi thổi hồn vào tác phẩm, thơ anh mới mặn mà, mới neo chặt vào bến hồn người đọc. Tác phẩm của anh phải bắt chặt, phải cắm rễ vào mảnh đất hiện thực ngoài kia mới có thể trở thành dòng suối trong trẻo chảy vào lòng bạn đọc. Khi Nguyễn Du viết truyện Kiều chẳng phải từ những điều trông thấy” mới đau lòng” đó sao? Những vần thơ ông như có máu rỏ đầu ngọn bút, chẳng phải từ điều sở kiến” đó sao? Tác phẩm văn học là con đẻ của nhà văn, do đó, nó là sự kết tinh của những cảm xúc mãnh liệt, nó phải là Tiếng thét khổ đau hay lời ca tung hân hoan”(Biêlinxki). Nếu nhà thơ sống bàng quan, lãnh đạm, không nếm trải mùi vị của cuộc đời thì thơ anh ta chẳng qua là một kỹ xảo ngôn từ, anh ta sẽ tự giết chết đứa con của mình, hay tồn tại thì chỉ lừa được một người, may mắn là một thời” (Diệp Tiếp). Những vần thơ thiết tha, sôi nổi của Xuân Diệu, những vần thơ đầy ắp thương mến của Tố Hữu…tất cả đều từ bầu sữa của bà mẹ cuộc sống.
Thơ là cái nhụy của cuộc sống, thơ chỉ trào ra khi trong tim ta cuộc sống đã tràn đầy”
(Tố Hữu). Cái chất mặn của những vần thơ ấy chính là cái tình của tác giả gửi gắm. Có rung động sâu xa trước những nỗi đau nhất, trước những biến đổi tinh vi nhất của tình cảm con người. Có bám chặt vào vị muối cuộc đời, độc giả mới tìm đến thơ anh để thấy mình trong đó. Khi Hồ Xuân Hương kêu lên:
"Chém cha cái kiếp lấy chồng chung,
Kẻ đắp chăn bông kẻ lạnh lùng."
Thì đó là lời thét của một hồng nhan đã trải qua bao sóng gió của cuộc đời, đã từng làm lẽ khắp nơi để rồi trơ cái "hồng nhan với nước non”. Lời rủa thống thiết làm rung cảm bao bạn đọc ấy phải chăng cũng từ hiện thực chua cay mà Hồ Xuân Hương phải trải qua? Nguyễn Du khi đau đớn thốt lên:
"Đau đớn thay phận đàn bà
Lời rằng bạc mệnh cũng là lời chung."
Thì cũng là từ những đắng cay mà thi sĩ Tố Như đã cùng Thuý Kiều trải qua trong mười lăm năm đoạn trường, để rồi viết nên thiên tình sử làm rung động bao thế hệ người đọc. Nhưng nếu chỉ là "vị muối của đời” mà không có tài năng, không có con tim nhạy cảm hơn người của nhà thơ thì cũng khó làm nên những vần thơ nóng bỏng. Cái vị muối cuộc đời ấy phải xuyên qua trái tim thi sĩ, thấm nhuần trong tâm hồn thi sĩ thì mới thành những vần thơ bất hủ. Nguyễn Du viết nên những trang Kiều” đẫm lệ nhưng cũng thật lung linh tuyệt đẹp. Nhà thơ phải có tài mới biến cái vị mặn của cuộc đời ấy thành viên muối, để nó dễ dàng thâm nhập vào trái tim bạn đọc. Những vần thơ tuyệt bút của Nguyễn Du chẳng phải là mẫu mực cho ngôn ngữ Việt đó sao? Nếu chỉ biết nếm trải cái vị muối cuộc đời mà không có ngòi bút tài hoa, làm sao Nguyễn Du lột tả hết nỗi cô đơn của Kiều sau những đêm mưa Sở mây Tần”:
"Khi tỉnh rượu, lúc tàn canh,
Giật mình mình lại thương mình xót xa."
Do đó, một nhà thơ vĩ đại phải là một nhà thơ có tài, và trên hết, anh phải có vốn sống, phải tắm mình trong bể muối để những nỗi đau, niềm vui, niềm hạnh phúc sáng bừng trong thơ anh, thế mới trở thành mạch nguồn trong trẻo qua tim người đọc.
Để viết nên những nhận định chân thực ấy, hẳn Chế Lan Viên đã từng trăn trở, băn khoăn, từng nếm mùi vị của muối đời”. Chàng thi sĩ của Ánh sáng và phù sa” ấy đã trải qua biết bao thăng trầm, đã một thời điêu tàn” trong mộng tưởng, trong nỗi đau nhân thế. Những vần thơ anh chẳn hẳn cùng được chưng cất lên từ bể muối cuộc đời? Trước Cách mạng tháng Tám, anh quan niệm thi sĩ không phải là người thường, đó là người mơ, người điên, người say, là Tiên là Ma, là Quỷ…Nhưng khi ánh sáng cách mạng chiếu vào hồn thơ Điêu tàn” ấy thì Xưa phù du mà nay đã phù sa, xưa bay đi mà không trôi mất”. Và từ những vị muối của cuộc đời, chàng thi sĩ ấy đã viết nên Tiếng hát con tàu”. Vị muối của cách mạng, của niềm tin mới đã thổi vào thơ anh một nhân sinh quan mới mẻ:
"Tây Bắc ư? Có riêng gì Tây Bắc
Khi lòng ta đã hoá những con tàu
Khi Tổ quốc bốn bề lên tiếng hát
Tâm hồn ta là Tây Bắc, chứ còn đâu."
Nhận ra chân lí cách mạng, thơ anh đã thật sự đổi mới, từ những vần thơ đầy ắp tình yêu quê hương, đất nước. Tâm hồn của thi sĩ thực sự đã hoá những con tàu”, đã hoá thành Tây Bắc. Lời thơ (phần đề từ) mang một quan niệm hết sức nhân văn. Là một con người, nhất là một nhà thơ, anh phải đi ra cuộc đời ngoài kia, phải hoà tiếng hát mình vào bản hợp xướng của dân tộc:
"Con tàu này lên Tây Bắc anh đi chăng?
Bạn bè đi xa anh giữ trời Hà Nội
Anh có nghe gió ngàn đang rú gọi
Ngoài cửa ô? Tàu đói những vầng trăng."
Lời thơ thúc giục, mang ý nghĩa triết lý – gió ngàn rú gọi” hay lời đất nước gọi? Không biết Chế Lan Viên đã trải qua bao nhiêu suy tư trước cuộc đời mới viết nên được những dòng thơ đầy triết lý như thế? Phải sống chân thực, phải cảm nhận sự đổi thay lớn lao của đất nước, chàng thi sĩ Điêu tàn” khi xưa mới nhận rõ chân lý: Chẳng có thơ đâu giữa lòng đóng khép, tâm hồn anh chờ gặp anh trên kia”. Và đây, hiện thực cuộc đời đã hiện ra:
"Xứ thiêng liêng, rừng núi hoá anh hùng
Nơi máu rỏ tâm hồn ta thấm đất
Nay dạt dào đã chín trái đầu xuân."
Dưới ngòi bút của thi sĩ, hiện thực cuộc đời ở rừng núi Tây bắc đã hóa anh hùng. Tây Bắc - miền sơn cước anh dũng đấu tranh chống giặc, nay lại anh hùng đứng lên xây dựng lại cuộc đời mới. Tâm hồn ta thấm đất”, cách nói thật mới mẻ, có tính biểu cảm cao. Từ rỏ” đọc lên sao mà xúc động đến tận tim gan, đến từng thớ thịt, từng ngóc ngách sâu xa nhất của trái tim. Rỏ” biểu hiện cái gì nó kiên nhẫn quá, bền bĩ quá! Trái tim thi sĩ như hoà cùng dòng máu Tây Bắc để cuộc sống mới dạt dào trái chín của đầu xuân”. Trái đầu xuân hay trái hạnh phúc, trái cuộc đời? Lời thơ thiết tha, dạt dào tình cảm. Đúng là xưa phù du mà nay lại phù sa”. Ở đây có sự biến đổi rất lớn lao, sâu sắc trong tư tưởng Chế Lan Viên. Để có được nhận thức như vậy, chàng thi sĩ ấy đã trải qua biết bao trăn trở, để cùng hoà mình vào đất mẹ:
"Con gặp lại nhân dân như nai về suối cũ
Cỏ đón giêng hai, chim én gặp mùa
Như đứa trẻ thơ đói lòng gặp sữa
Chiếc nôi ngừng bổng gặp cánh tay đưa"
Cách so sánh thật độc đáo! Cuộc đời cách mạng đã cho anh lẽ sống, niềm vui mới. Chế Lan Viên thực sự đã hoà mình vào dòng chảy cuộc đời, Gặp lại nhân dân như nai về suối cũ” thể hiện niềm vui tột đỉnh, niềm sung sướng hân hoan khi được sống giữa tình nhân dân trìu mến trên mảnh đất anh hùng. Không còn là “con nai bị chiều giăng lưới” (Xuân Diệu) hay ”con nai vàng ngơ ngác” (Lưu Trọng Lư), mà bây giờ là con nai của cuộc sống thời đại, của hơi thở lịch sử. Phải yêu thương chân thành, tha thiết, phải có xúc cảm mãnh liệt với xứ thiêng liêng” ấy Chế Lan Viên mới viết nên được dòng thơ độc đáo như vậy. Con người Tây Bắc lần lượt hiện ra trong tâm tưởng nhà thơ:
"Con nhớ anh con, người anh du kích
(…) Con nhớ em con, thằng em liên lạc."
Lời thơ tha thiết, chan chứa tình cảm, cứ thủ thỉ, thủ thỉ như lời con nói với mẹ. Những con người gan góc, anh hùng lần lượt xuất hiện. Chiếc áo nâu” của người anh du kích biểu hiện cho con người Việt Nam Gái trai cũng một áo nâu nhuộm bùn” và bây giờ cởi lại cho con” như sự tiếp nối truyền thống yêu nước, như sự trao gửi tình yêu thương. Những con người hiện ra thật đẹp, thật anh hùng…
Lời thơ thắm thiết như chính tấm lòng yêu thương, cảm phục của tác giả gửi đến những con người Tây Bắc. Nếu không sống trong bể đời dân tộc, không tắm trong dòng chảy lịch sử, thì những lời thơ như có ánh sáng ấy làm sao có thể đẹp đến như vậy. Cảm động nhất là hình ảnh người mẹ:
"Con nhớ mế! Lửa hồng soi tóc bạc
Năm con đau, mế thức một mùa dài
Con với mế không phải hòn máu cắt
Nhưng trọn đời con nhớ mãi ơn nuôi.
Trái tim ta như bổi hổi, bồi hồi cùng thi sĩ. Tình cảm như tràn ra khỏi câu thơ, dạt dào chảy vào tim ta. Ngọn lửa hồng ấy phải chăng là ngọn lửa của tình thương mà người mế thức suốt mùa dài để sưởi ấm cho đứa con nuôi? Nếu Chế Lan Viên không có xúc cảm mãnh liệt thì không thể vẽ nên bức tranh giản dị, chân thực và xúc động đến thế! Chính tình thương của người mế đã thổi vào hồn thi sĩ những xúc cảm chân thành. Nỗi nhớ chồng chất nỗi nhớ, tình thương dồn dập tình thương. Tình cảm thi sĩ cứa tuôn trào, tuôn trào không dứt. Bên cạnh nhân dân”, anh du kích”, em liên lạc” và mế” là em”:
"Anh bỗng nhớ em như đông về nhớ rét
Tình yêu ta như cánh kiến hoa vàng."
Lại nỗi nhớ! Nhưng được biểu đạt bằng một cách riêng: Nhớ như đông về nhớ rét”. đông” và rét” là hai hiện tượng tự nhiên luôn gắn liền với nhau. Cách ví von thật chính xác. Tình yêu” ấy có thể là tình yêu đôi lứa, tình bạn hay tình quê hương, đất nước, nghĩa nào cũng đúng cả. Chất suy tưởng nhiều tầng nghĩa vốn là một bút pháp của Chế Lan Viên. Hai câu thi nhãn” theo tôi là câu:
"Khi ta ở, chỉ là nơi đất ở
Khi ta đi, đất đã hoá tâm hồn !"
Có thể nói Chế Lan Viên đã thấm hồn trên câu chữ. Hai câu thơ đọc lên sao cứ rưng rưng! Nếu không có lòng yêu quê tha thiết, nếu không nếm trải chất muối vùng Tây Bắc thì làm sao thi sĩ có thể hạ bút thế được. Cũng như chàng Lý Bạch xưa kia, xa quê hương, khi ngắm vầng trăng quê người thì "Ngẩng đầu nhìn trăng sáng, cúi đầu nhớ cố hương”. Mảnh đất nơi ta đã rỏ máu, nơi nhân dân đã không tiếc xương máu để giăng lúa chín rì rào” ấy đã gắn chặt nơi trái tim ta, đã hoá vào tâm hồn ta. Câu thơ là nỗi niềm riêng của nhà thơ hay nỗi lòng của bao người con xa xứ? Chất muối của tình yêu, của sự gắn bó đã kết tinh trên câu chữ:
“Khi ta đi, đất đã hoá tâm hồn!”
Cuộc sống đã cho nhà thơ cái nhìn mới, thời đại đã cho nhà thơ cảm xúc mới: "Mười năm kháng chiến vàng ta đau trong lửa”. Cách nói mang đầy chất triết lý, suy tưởng. Thi sĩ ơi! Cuộc đời đã về với anh, thơ đã thực sự là thơ, không còn đau trong lửa”. Trái tim Chế Lan Viên như reo mừng: nay trở về ta lấy lại vàng ta”. Trái tim cô đơn, điêu tàn không còn nữa! Tình yêu con người và cuộc sống thời đại đã cho anh ánh sáng mới, bồi đắp cho anh nguồn phù sa màu mỡ, để thơ anh thật sự đi vào lòng người. Đoạn cuối cũng lại là một dòng suy tưởng:
"(…) Ai bảo con tàu không mộng tưởng?
Mỗi đem khuya không uống một vầng trăng
Lòng ta cũng như tàu, ta cũng uống
Mặt hồng em trong suối lớn mùa xuân."
Đến đây thì lòng thi sĩ, mùa xuân của thi sĩ đã thực sự hoà mùa xuân đất nước.
Những vần thơ giàu tính triết lý, giàu hình ảnh ấy thật sự là trái tim thi sĩ được bóc ra. Chế Lan Viên đã thực sự hoà trong dòng chảy lịch sử, đã cảm nhận tinh tế tình cảm của con người Tây Bắc, đã sống trong những ngày gian khổ của dân tộc, nên thơ anh cứ như bản nhạc lúc thanh lúc trầm dội vào lòng độc giả.
07/01/2024
Tử Y Không biết thơ ca sinh ra tự thuở nào, nhưng nó đã được biết đến, bàn đến rất nhiều. Có lẽ bởi thơ ca là hình thái nghệ thuật dễ đi vào lòng người nhất, dễ rung cảm bể cả tình người nhất. Điều làm cho thơ ca có sức quyến rũ như vậy? Bởi thơ ca được chưng cất lên từ nước biển, nó nói hộ bao cung bậc tình cảm con người. Vì thế, Chế Lan Viên cho rằng “Hãy biết ơn vị muối của đời cho thơ chất mặn!”. Chế Lan Viên đã đề cập đến vấn đề quan hệ giữa “đời” và “thơ”.
Nhớ câu nói của Biêlinxki “Thơ, trước hết là cuộc đời, sau đó mới là nghệ thuật”. Tư tưởng của những nhà thơ, nhà văn chân chính đã gặp nhau. Tất cả mọi hình thái nghệ thuật đều bắt nguồn từ trực quan sinh động qua lăng kính của nhà văn nhà thơ rồi mới phản chiếu vào tác phẩm. “ Vị muối” cuộc đời ấy là hiện thực cuộc sống, là những trăn trở, lo âu, buồn phiền, sung sướng, hạnh phúc…Là nhà thơ chân chính, anh phải lăn lộn ngoài cuộc đời sương gió kia, phải cảm nhận hết nỗi đau, niềm vui, hạnh phúc của con người rồi thổi hồn vào tác phẩm, thơ anh mới mặn mà, mới neo chặt vào bến hồn người đọc. Tác phẩm của anh phải bắt chặt, phải cắm rễ vào mảnh đất hiện thực ngoài kia mới có thể trở thành dòng suối trong trẻo chảy vào lòng bạn đọc. Khi Nguyễn Du viết truyện Kiều chẳng phải từ “những điều trông thấy” mới “đau lòng” đó sao? Những vần thơ ông như có máu rỏ đầu ngọn bút, chẳng phải từ điều “sở kiến” đó sao? Tác phẩm văn học là con đẻ của nhà văn, do đó, nó là sự kết tinh của những cảm xúc mãnh liệt, nó phải là “Tiếng thét khổ đau hay lời ca tung hân hoan”(Biêlinxki). Nếu nhà thơ sống bàng quan, lãnh đạm, không nếm trải mùi vị của cuộc đời thì thơ anh ta chẳng qua là một kỹ xảo ngôn từ, anh ta sẽ tự giết chết đứa con của mình, hay tồn tại thì chỉ “lừa được một người, may mắn là một thời” (Diệp Tiếp).
Quê hương dù được sáng tác vào những năm đầu khi Tế Hanh chập chững đặt những dấu chân đầu tiên trên thi đàn Việt Nam, cụ thể là trong phong trào thơ Mới thế nhưng bản thân tác phẩm đã đem đến những nguồn cảm xúc mới lạ, đồng thời cũng thể hiện được cái tài năng và duyên đặc biệt của nhà thơ đối với quê hương, một khái niệm rất đỗi thân thuộc nhưng không phải nhà thơ nào cũng đủ tinh tế để viết về nó một cách mềm mại và sâu sắc.
Chính bởi sinh ra và lớn lên giữa làng quê làm nghề chài lưới nên Tế Hanh mới có được những cảm nhận rất chân thực và tinh tế về người ngư dân và cuộc sống tâm hồn của họ. Người ngư dân quan năm vật lộn với biển cả thế nên họ chẳng thể nào có được một làn da trắng trẻo, thay vào đó họ mang một màu da đặc trưng “làn da ngăm rám nắng”, mang cảm giác khỏe khoắn và cũng nhiều vất vả. Tinh tế hơn cả không biết bằng cách nào mà Tế Hanh có thể cảm nhận được cái “nồng thở vị xa xăm” trên những con người của biển cả, đó là hương muối mặn mòi, hương gió tận khơi xa đã thấm vào tận trong tâm hồn, cốt cách của con người. Từ đó xây dựng nên một hình tượng rất riêng, hình tượng người dân làng chài với phong vị của biển cả, rất khỏe khoắn, rất lam lũ và cũng thân thuộc vô cùng.
Không chỉ có riêng cảm nhận về người ngư dân sau buổi đánh bắt xa bờ, mà Tế Hanh còn chú tâm đến cả con thuyền, nếu như lúc ra khơi thuyền hăng hái, xung phong một cách mạnh mẽ, thì khi trở về thuyền cũng trở nên trầm tĩnh, nằm nghỉ mệt sau một đêm dài dong buồm ra khơi. Có thể nói Tế Hanh luôn cảm nhận sự vật ở góc độ chúng linh tính, ông luôn mang ánh mắt thông cảm và yêu thương để nhìn tất thảy mọi vật trên quê hương, kể cả mảnh hồn làng vốn không bóng hình cũng trở nên có nét. Thuyền cũng như con người cũng biết cố sức dong buồm căng gió, rồi sau những cố gắng không ngừng nghỉ thuyền cũng muốn được nghỉ ngơi, tạo nên một cảm giác thư thả, yên bình của làng chài sau những ngày lao động vất vả. Con thuyền nằm im “Nghe chất muối thấm dần trong thớ vỏ” như đang tâm sự với biển cả, ôn lại kỷ niệm ra khơi, và ở đó người ta nhận thấy có một sự chuyển đổi cảm giác rất đặc sắc, vị giác của Tế Hanh nếm thấy vị mặn của muối, tai thì “nghe” thấy vị muối và dùng xúc giác để cảm nhận sự mặn mòi của biển cả đang thấm dần trong thớ vỏ con thuyền, hay trong thân thể con người quê hương. Đó chính là sự hòa quyện, gắn bó sâu sắc của vạn vật đối với biển cả của quê hương.
Quê hương của Tế Hanh mang những đặc điểm nghệ thuật quen thuộc như so sánh, nhân hóa, từ ngữ giản dị, mộc mạc, thế nhưng bằng cái ánh nhìn và cảm nhận tinh tế nhà thơ đã đưa chúng ta đến với một bức tranh sinh hoạt của làng chài vừa sinh động vừa tình cảm nên thơ vô cùng. Ở đó ta thấy Tế Hanh đã dành cho quê hương mình những tình cảm rất đỗi tha thiết sâu nặng, thế nên dù khi đã đi xa nhưng ông vẫn mãi nhớ về một quê hương với những con người mặn mòi muối biển, hơi thở nồng đượm vị xa xăm, vẫn nhớ như in cảnh con thuyền nằm im trên bến đỗ ngẫm nghĩ về biển cả mênh mông.
07/01/2024
Tử YMột tác phẩm văn học mà có thể làm sáng tỏ nhận định trên là "Tắt đèn" của nhà văn Ngô Tất Tố. Trong tác phẩm này, câu chuyện diễn ra trong một ngôi làng nghèo nàn, nơi mà cuộc sống khó khăn và đầy gian truân. Nhưng qua những khó khăn đó, nhân vật chính - cô gái Diệu Lan, đã biết ơn vị muối của đời và tìm thấy thơ chất mặn trong cuộc sống.
Diệu Lan không bị cuốn theo những tham vọng và vật chất, mà cô tìm niềm vui và ý nghĩa trong việc giúp đỡ người khác, trong việc yêu thương và chăm sóc gia đình. Cô biết trân trọng những điều giản dị và tự nhiên, và từ đó, cô tìm thấy sự giàu có trong lòng và tâm hồn.
Tác phẩm "Tắt đèn" qua câu chuyện của Diệu Lan đã làm sáng tỏ nhận định của Chế Lan Viên về việc biết ơn vị muối của đời cho thơ chất mặn. Nó nhấn mạnh rằng, dù cuộc sống có khó khăn và gian truân, nhưng khi ta biết trân trọng những điều giản dị và tìm thấy niềm vui trong việc yêu thương và chăm sóc người khác, ta sẽ tìm thấy ý nghĩa và sự giàu có trong cuộc sống.
Nếu bạn muốn hỏi bài tập
Các câu hỏi của bạn luôn được giải đáp dưới 10 phút
CÂU HỎI LIÊN QUAN
3 giờ trước
Top thành viên trả lời