Câu 1. Từ những dấu hiệu để nhận diện làng, xã của Việt Nam nói chung, em hãy chỉ ra những dấu hiệu nhận diện về làng, xã nơi em sinh sống ? Câu 2. Phân tích vai trò dựng nước và giữ nước của làng, xã...

ADS
thumb up 0
thumb down
Trả lời câu hỏi của nhìn mất 5 tỷ
  • Câu trả lời phải chính xác, đầy đủ dựa trên kiến thức xác thực:
    • ✔ Đối với câu hỏi trắc nghiệm: Đưa đáp án lựa chọn + giải thích lý do chọn đáp án.
    • ✔ Đối với câu hỏi tự luận: Đưa lời giải và đáp án cho câu hỏi.
    • ✔ Đối với câu hỏi trả lời ngắn: Đưa ra đáp án + giải thích lý do.
    • ✔ Chấp nhận sử dụng ảnh do thành viên viết tay, ảnh cần rõ nét, không bị mờ, vỡ ảnh.
  • Sử dụng ngôn ngữ rõ ràng, dễ hiểu.
  • Tránh đưa ra các ý kiến cá nhân mang tính chất chủ quan.
  • Nếu sử dụng thông tin từ nguồn khác, phải trích dẫn nguồn đầy đủ và chính xác.
  • Tuyệt đối không được sao chép các thông tin từ các trang khác, từ AI hoặc chatGPT.
ADS
CÂU TRẢ LỜI
avatar
Timi

16/01/2024

Câu trả lời uy tín
Trợ lý học tập AI - Câu trả lời này chỉ mang tính tham khảo
câu 1: Ở nơi em sinh sống, có một số dấu hiệu nhận diện về làng, xã như sau:
1. Có cổng xây hoặc tre ở đường vào làng, thường có thể đóng lại vào đêm tối để phòng ngừa trộm cướp.
2. Có luỹ tre xanh để phân biệt các xóm với nhau.
3. Có sự tụ tập của nhiều gia đình đồng quê thành khu xóm.
4. Có sự tụ tập của nhiều xóm thành một thôn.
5. Có sự tụ tập của nhiều thôn thành một xã.
6. Sử dụng các từ như "làng", "xã", "thôn" để chỉ định địa điểm.
7. Có sự tổ chức và quản lý của chính quyền địa phương trong làng, xã.
Đây là một số dấu hiệu nhận diện về làng, xã mà em có thể thấy ở nơi em sinh sống.

câu 2: Làng và xã xưa và nay đóng vai trò quan trọng trong việc dựng nước và giữ nước của đất nước Việt Nam. Trước đây, làng xã cổ truyền có vai trò bảo tồn và truyền thống giữa các thế hệ. Làng là nơi ấp ủ và lưu giữ những nếp sống ngàn đời của cha ông ta. Làng có vị trí, vai trò, và sức mạnh bảo tồn những giá trị truyền thống trước sức mạnh của ngoại xâm. Làng là một đơn vị tụ cư truyền thống của người nông dân Việt ở nông thôn, có địa vực, cơ sở hạ tầng, cơ cấu tổ chức, phong tục, tập quán, tâm lý, quan niệm, tính cách và cả “hương âm”, "thổ ngữ" tức "giọng làng" riêng, hoàn chỉnh và tương đối ổn định trong quá trình lịch sử. Làng xã cổ truyền có tự trị, tự quản, với nhà nước chỉ can thiệp vào các vấn đề như thu thuế, bắt lính, xử lý vụ án hình sự và tranh chấp dân sự không hòa giải được. Cơ cấu tổ chức của làng xã xưa đơn giản nhưng chặt chẽ, gồm Hội đồng hương chính và Lý trưởng do dân làng tự bầu, Nhà nước phê chuẩn.

Ngày nay, làng xã cổ truyền đã thay đổi và trở thành một đơn vị dân cư mở, mỗi xã là một đơn vị hành chính cấp nhỏ nhất trong hệ thống hành chính bốn cấp hiện nay. Tuy nhiên, vai trò của làng xã vẫn rất quan trọng trong việc dựng nước và giữ nước. Làng xã đóng góp vào việc phát triển kinh tế hàng hóa, mở rộng làng nghề, nông nghiệp sạch để nâng cao đời sống nhân dân. Làng xã cũng đóng vai trò trong việc duy trì và bảo tồn các giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc.

Tuy nhiên, với sự phát triển của kinh tế thị trường, làng xã cổ truyền đang phải đối mặt với nhiều thách thức. Sự chuyển đổi đất nông nghiệp sang công nghiệp đã làm biến dạng không ít làng xã cổ truyền, biến nhiều nông dân thành thị dân và gây ra sự suy thoái đạo đức văn hóa nông thôn. Cơ chế thị trường cũng đã khiến người nông dân lao vào cuộc tranh đoạt và gây ra tranh chấp đất đai.

Để giữ gìn và phát triển vai trò dựng nước và giữ nước của làng xã, cần có sự phối hợp giữa Nhà nước và cộng đồng dân cư. Nhà nước cần có những giải pháp vĩ mô để hỗ trợ phát triển làng xã, trong khi đó, cộng đồng dân cư, làng xã và mỗi cá nhân cần phát huy vai trò của mình trong việc bảo tồn và phát triển giá trị truyền thống của làng xã.


Hãy giúp mọi người biết câu trả lời này thế nào?
5.0/5 (1 đánh giá)
thumb up 0
thumb down
0 bình luận
Bình luận
avatar
level icon
MySoi123

16/01/2024

Câu 1: Dấu hiệu nhận diện về làng, xã nơi em sinh sống: Cộng đồng làng xã còn gắn bó  trong sản xuất, phát triển kinh tế. Ai học được kinh nghiệm gì trong chăn nuôi, trồng trọt, làm nghề phụ đều trao đổi phổ biến cho nhau chứ không dấu giếm, giữ làm bí quyết cho mình. Hỗ trợ nhau làm kinh tế là nét đẹp của làng. Họ còn đoàn kết chặt chẽ với nhau trong các công việc chung như xây dựng đường làng, trồng cây xanh, làm trường học, nhà hộ sinh, tu bổ di tích lịch sử- văn hoá, tạo nếp sống vệ sinh, lành mạnh. Mỗi kỳ làng vào đám giỗ thành hoàng làng là một lần lễ hội được đông đảo người tham gia. Bà con người làng đi xa cũng nhớ ngày tìm về hội họp và đóng góp công của cho quê cha đất tổ. Sự kỳ thị người làng ra đi làm ăn khá giả đã không còn như trước. Mối liên hệ giữa người làng ở khắp các miền đất nước được duy trì qua các hội đồng hương. Cũng không còn coi "miếng giữa làng bằng sàng xó bếp" nữa. Bởi không còn phân biệt chiếu trên, chiếu dưới; không còn phân biệt chức sắc với dân đen; tuy nhiên việc trọng thọ vẫn được coi trọng và trí thức là vốn quý của làng.

Câu 2: 

Làng vốn ban đầu là những công xã nông thôn - địa điểm tụ cư của những người dân gắn bó với nhau trên quan hệ địa vực là chủ yếu. Làng là nền tảng để xây dựng nhà nước đầu tiên, làng cũng là nền tảng vững chắc để chống lại cuộc đồng hóa dưới thời Bắc thuộc. Khi đất nước được độc lập tự chủ, làng tiếp tục là chỗ dựa, là sức mạnh để chống lại các cuộc xâm lược của các triều đại phong kiến phương Bắc.

Nếu như quan hệ giữa các thành viên trong làng mang tính cộng đồng thì trong quan hệ với các cộng đồng bên ngoài và với chính quyền cấp trên làng lại mang tính chất tự trị, tự quản cao. Tính tự trị của làng một mặt giúp cho làng xã Việt Nam trở thành pháo đài xanh trước sự tấn công của kẻ thù về mọi mặt nhưng mặt khác cũng gây trở ngại lớn cho sự phát triển và giao lưu của làng xã. “Tính tự trị và các quan hệ cộng đồng trong làng xã khiến cho con người chỉ tồn tại hợp pháp với tư cách là thành viên chính thức, vì lí do nào đó có những người không đủ tư cách chính thức như dân ngoại tịch ngụ cư hoặc bị xóa tên trong sổ làng thì không được lệ làng bảo đảm, bị sống ngoài lệ làng”. Tính tự trị là một đặc điểm lớn của làng xã Việt Nam truyền thống, đó là “tự điều chỉnh-tự điều khiển của làng xã trong quá trình vận động của kinh tế xã hội. Tự điều chỉnh, tự điều khiển là ít chịu sự can thiệp trực tiếp của các cấp chính quyền bên trên, là sự vận hành đa tuyến của xã hội dân sự”.

Trong buổi đầu dựng nước, làng xã Việt Nam là những công xã nông thôn với tên gọi là những kẻ, chiềng, chạ. Đứng đầu các đơn vị hành chính này là Hội đồng các bô lão gồm những người cao tuổi và có uy tín trong làng xã. “Hội đồng sẽ quyết định mọi công việc lớn nhỏ, quyết định việc dời làng,việc chiến hay hòa, giải quyết những việc giao dịch hay tranh chấp, phân xử những vụ vi phạm luật tục, định mức phạt vạ” Nhân dân làng xã tự nguyện đóng góp một phần thu nhập để cho Hội đồng này hoạt động nhằm lợi ích chung của cả cộng đồng. Trên cơ sở thống nhất các bộ lạc, nhà nước Văn Lang ra đời. Bộ máy nhà nước lúc đó còn rất sơ sài, để quản lí các đơn vị bên dưới, nhà nước phải dựa vào các Hội đồng bô lão do Bồ chính đứng đầu. Do đó, thời Hùng Vương, tổ chức quản lí làng xã hoàn toàn do làng xã tự điều hành thông qua Hội đồng bô lão và Bồ chính do dân bầu ra, nhà nước không can thiệp vào.

Trong thời kì Bắc thuộc và chống Bắc thuộc, các triều đại phong kiến phương Bắc luôn tìm cách can thiệp sâu vào nước ta, bộ máy thống trị của chúng ngày càng thắt chặt xuống các đơn vị hành chính bên dưới. Tuy nhiên, bộ máy quản lí làng xã vẫn do nhân dân bầu ra để thực hiện các nhiệm vụ chung.

Sang thời kì phong kiến độc lập tự chủ, làng xã vẫn duy trì bộ máy quản lí quản lí làng xã của mình. Đó là, các Tiên chỉ, Thứ chỉ, các bô lão và Hội đồng kì mục được bầu theo khoán ước, hương ước của làng. Đồng thời bộ phận này cũng chính là những người bầu ra lí trưởng là người đại diện cho nhà nước trong việc quản lí làng xã và họ cũng là người quyết định mọi công việc của làng. Như vậy, nhìn vào bộ máy quản lí làng xã cho chúng ta thấy một điều làng xã vẫn có tính chất tự trị nhất định. Nhà nước buộc phải chấp nhận sự tồn tại của bộ phận phi quan phương trong làng xã làm cho bộ máy tổ chức quản lí làng xã trở thành một kết cấu nhị nguyên kết hợp giữa quyền tự trị của làng xã với chính quyền nhà nước.

Tính tự trị của làng xã còn thể hiện qua quyền sở hữu và phân chia ruộng đất công làng xã. Làng xã Việt Nam vốn xuất phát là những công xã nông thôn với chế độ sở hữu tập thể về ruộng đất. Khi nhà nước ra đời, các công xã vẫn giữ được quyền sở hữu và chiếm dụng ruộng đất này.

Sau khi đất nước được tự chủ, chế độ chuyên chế trung ương tập quyền được cũng cố, chính sách ban cấp ruộng đất của nhà nước cho quan lại và người có công ngày càng rộng rãi, sở hữu tư nhân về ruộng đất ngày càng được mở rộng. Tuy vậy, nhà nước cũng phải chấp nhận một thực tế là các làng khi khai báo ruộng đất công lên cho nhà nước làm sổ điền bạ đã giữ lại một bộ phận để làm ruộng hậu thực hiện các công việc chung của làng xã hay là những ruộng đất khai hoang thêm của dân trong làng sau đó cũng nằm ngoài sổ quản lí của nhà nước. Tình hình này phổ biến nhiều hơn ở các tỉnh ở Đàng trong khi diện tích chưa khai khẩn còn một lượng lớn. Ở nhiều nơi vẫn tồn tại một thực tế “làng xã thật sự là đơn vị sở hữu và điều tiết, phân phối nguồn tài sản lớn nhất của cộng đồng là ruộng đất công trên cơ sở phép nước lệ làng, còn nhà nước chỉ nắm ruộng đất xã thôn trên danh nghĩa với mục đích chính là thu thuế”

Ngay cả việc phân chia ruộng đất theo chế độ quân điền của nhà nước cũng nhiều nơi vẫn làm theo lệ làng “chế độ quân diền thời Gia Long đề ra 3 năm một lần chia, nhưng không ít làng xã lại kéo dài đến 4 năm. Ngoài phần ruộng chia cho dân làng còn có ruộng cho giáp, cho chùa, cho đình, cho hội Tư văn, cho các chức dịch từ xã trưởng đến mõ- mà nhà nước trung ương không thể kiểm soát nổi”

Làng xã vốn ban đầu là nhóm cư dân gắn bó với nhau bởi quan hệ địa vực, để duy trì được cộng đồng cần phải có những quy định giữa các thành viên. Khi cộng đồng tăng lên, nhiều mối quan hệ phức tạp, chồng chéo nảy sinh càng đòi hỏi phải có những quy định chặt chẽ hơn. Những quy định đặt ra cho nhân dân mỗi làng mà nhiều khi nó còn có sức mạnh chi phối lớn hơn cả luật nước với nội dung khá phong phú và toàn diện, không giống nhau giữa các làng. Những quy định đó cho thấy tính tự trị của làng trên nhiều phương diện.

Khi các cộng đồng dân cư ngày một đông đúc, các mối quan hệ kinh tế - xã hội ngày càng phong phú và đa dạng, các tục lệ nhiều thêm lên, cuộc sống làng xã không còn thuần nhất thì các quy ước truyền miệng không còn đáp ứng được việc quản lí cộng đồng, cần phải văn bản hóa. Vì vậy, hương ước ra đời. Hương ước là bộ luật của làng xã thể hiện tính tự trị của làng xã đối với nhà nước phong kiến, là cương lĩnh tinh thần của mọi thành viên trong làng xã. Tính tự trị của làng xã qua hương ước được phản ánh qua các điều lệ quy định của hương ước nhiều khi còn khác xa so với pháp luật của nhà nước. Ngay cả những nội dung có liên quan đến nghĩa vụ của làng xã với nhà nước như các quy định về phân chia ruộng đất công, đống nộp sưu thuế, phu phen tạp dịch cũng được cụ thể hóa theo điều kiện, đặc điểm của từng làng. Ngoài ra tính tự trị của làng Việt cổ truyền qua hương ước còn thể hiện ở việc mỗi làng có một bản hương ước riêng không giống nhau thậm chí có khi còn trái ngược nhau. Các bản hương ước đó có thể được điều chỉnh qua từng thời kì tùy theo sự thay đổi của làng của nước, và sự thay đổi này có thể không báo lên chính quyền cấp trên làm cho nhà nước không dễ gì quản lí được. Nhà nước có muốn can thiệp sâu vào làng xã thì vẫn phải công nhận cho làng có những quyền tự trị nhất định trong việc duy trì những phong tục tập quán của làng. Ngược lại, muốn được nhà nước chấp nhận hương ước riêng của làng xã thì làng xã cũng phải lồng vào đó những quy định của nhà nước, “hương ước là hiện thân của sự dung hòa quyền lợi giữa nhà nước và làng xã”.

Như vậy, làng xã qua các thời kì đều mang tính chất tự trị tuy mức độ không giống nhau, bởi vì “công xã nông thôn với chế độ sỡ hữu công xã về ruộng đất và nền kinh tế tự nhiên kết hợp chặt giữa nông nghiệp và thủ công nghiệp bản thân nó mang tính chất cục bộ”

Hãy giúp mọi người biết câu trả lời này thế nào?
0/5 (0 đánh giá)
thumb up 0
thumb down
0 bình luận
Bình luận
ADS

Nếu bạn muốn hỏi bài tập

Các câu hỏi của bạn luôn được giải đáp dưới 10 phút

Ảnh ads

CÂU HỎI LIÊN QUAN

logo footer
FQA.vn Nền tảng kết nối cộng đồng hỗ trợ giải bài tập học sinh trong khối K12. Sản phẩm được phát triển bởi CÔNG TY TNHH CÔNG NGHỆ GIA ĐÌNH (FTECH CO., LTD)
Điện thoại: 1900636019 Email: info@fqa.vn
Location Địa chỉ: Số 21 Ngõ Giếng, Phố Đông Các, Phường Ô Chợ Dừa, Quận Đống Đa, Thành phố Hà Nội, Việt Nam.
Tải ứng dụng FQA
app store ch play
Người chịu trách nhiệm quản lý nội dung: Nguyễn Tuấn Quang Giấy phép thiết lập MXH số 07/GP-BTTTT do Bộ Thông tin và Truyền thông cấp ngày 05/01/2024
Copyright © 2023 fqa.vn All Rights Reserved
gift-box
survey
survey
Đặt câu hỏi