14/02/2024
14/02/2024
14/02/2024
Nguyễn Du là đại thi hào của dân tộc, ông đã viết những bài thơ thể hiện thân phận khổ cực và hẩm hiu của con người và nhất là của người phụ nữ. tấm lòng nhân đạo của ông đã được thể hiện rất sâu sắc qua các bài thơ và sâu sắc nhất được thể hiện qua tác phẩm Truyện Kiều. Đoạn trích “ôm lòng đời đoạn xa gần...Nay hoàng hôn đã lại mang hôn hoàng” thuộc phần “Gia biến và lưu lạc”, nói về tâm trạng của Thúy Kiều khi vào chốn lầu xanh.
Mở đầu đoạn trích:
Ôm lòng đòi đoạn xa gần.
Chẳng vò mà rối, chẳng dần mà đau!
Hai câu thơ đầu: nói lên tâm trạng rối bời, đau đớn, ngổn ngang trăm mối của Thúy Kiều. Tâm trạng đau đớn vò võ trong cõi lầu xanh, tựa như chẳn vò mà rối, chẳng dần mà đau.
Sáu câu tiếp: nói về nỗi lòng của Thúy Kiều đối với cha mẹ và gia đình:
Nhớ ơn chín chữ cao sâu,
Một ngày một ngả bóng dâu tà tà.
Dặm nghìn nước thẳm non xa,
Nghĩ đâu thân phận con ra thế này.
Sân hòe đôi chút thơ ngây,
Trân cam ai kẻ đỡ thay việc mình?
Đó là nỗi day dứt vì cha mẹ ngày một già yếu mà mình thì lưu lạc phương trời, không thể kề cận chăm sóc. Đó là sự hiếu thảo của người con với cha mẹ mà không thể báo đáp được công ơn sinh thành. Đó cũng là nỗi lo lắng vì hai em còn thơ ngây, sợ chưa biết lo toan việc gia đình, chăm sóc cha mẹ.
Bốn câu thơ tiếp: nỗi lòng của Thúy Kiều đối với Kim Trọng:
Nhớ lời nguyện ước ba sinh,
Xa xôi ai có thấu tình chăng ai?
Khi về hỏi liễu Chương Đài,
Cành xuân đã bẻ cho người chuyên tay!
Nàng nhớ lại lời hẹn ước cùng Kim Trọng và nỗi băn khoăn không biết Kim Trọng có hiểu cho tình cảnh phải bán mình chuộc cha, phải phụ lời thề với chàng hay không. Đồng thời nàng cũng xót xa cho thân phận của mình, giờ không còn giữ được lòng chung thủy với Kim Trọng, phải trở thành món đồ chơi trong tay kẻ khác.
Hai câu thơ tiếp nói về nỗi đau đớn, băn khoăn của Thúy Kiều về việc trao duyên cho Thúy Vân:
Tình sâu mong trả nghĩa dày,
Hoa kia đã chắp cành này cho chưa?
Nàng không biết Thúy Vân đã chịu kết duyên cũng Kim Trọng, để thay nàng trả nợ mối tình sâu nghĩa nặng cho Kim Trọng hay chưa.
Bốn câu cuối một lần nữa nhấn mạnh tâm trạng đau khổ rối bời của Thúy Kiều:
Mối tình đòi đoạn vò tơ,
Giấc hương quan luống lần mơ canh dài.
Song sa vò võ phương trời,
Nay hoàng hôn đã lại mai hôn hoàng.
Đó là những hình cảnh của nàng thật tội nghiệp: thui thủi vò võ một mình nơi đất khách quê người. Ngày lại ngày, trong những giấc ngủ, luôn mơ về, nhớ về gia đình, nhớ về người yêu.
Đoạn trích đã miêu tả một cách tinh tế và sâu sắc diễn biến tâm trạng của Thúy Kiều khi phải tha hương, sống trong hoàn cảnh bất hạnh. Thông qua đoạn trích đã cho ta hiểu được thân phận chìm nổi bất hạnh, nỗi lòng đau đớn rối bời của Thúy Kiều, qua đó cũng thấy được vẻ đẹp tâm hồn của nàng và tấm lòng nhân đạo cao cả của Nguyễn Du.
14/02/2024
Đoạn trích “Kiều ở lầu Ngưng Bích” nằm trong Truyện Kiều của đại thi hào dân tộc Nguyễn Du – một tác phẩm có giá trị văn hóa lớn và mang ý nghĩa nhân văn sâu sắc. Đoạn trích là tiêu biểu và thể hiện đầy đủ nhất cho nghệ thuật tả cảnh ngụ tình tài năng của Nguyễn Du. Nổi bật trong đoạn trích là tâm trạng của Thúy Kiều khi bị giam cầm ở lầu Ngưng Bích.
Mở đầu tác giả đã vẽ ra khung cảnh không gian và thời gian tại lầu Ngưng Bích, không gian rộng lớn, tĩnh mịch làm nổi bật lên tâm trạng cô đơn và cảnh ngộ bi kịch của Kiều:
“Trước lầu Ngưng Bích khóa xuân…
Cát vàng cồn nọ bụi hồng dặm kia”
“Khóa xuân” chính là tình cảnh bị giam hãm, cầm tù của Thúy Kiều ở lầu Ngưng Bích, cảnh ngộ của Kiều đầy bi kịch. Các từ ngữ miêu tả: “vẻ non xa”, “bốn bề bát ngát”, “cát vàng cồn nọ”,… gợi không gian mênh mông rợn ngợp, bày tỏ tâm trạng lạc lõng, bơ vơ của Kiều trước đất trời rộng lớn. Bức tranh có màu sắc, đường nét nhưng lại vắng bóng con người, sự sống, càng tăng thêm vẻ trống trải, hoang vắng và lạnh lẽo. Từ chính hoàn cảnh đó, Thúy Kiều đã ý thức về cảnh ngộ đầy bi kịch của mình:
“Bẽ bàng mây sớm đèn khuya
Nửa tình nửa cảnh như chia tấm lòng”
Phân tích tâm trạng nhân vật Thúy Kiều khi ở lầu Ngưng Bích thông qua đoạn trích Kiều ở lầu Ngưng Bích“Bẽ bàng” chính là tâm trạng hoang mang đến tột độ và chua xót khôn cùng của Kiều với số phận. “Mây sớm đèn khuya” là vòng tuần hoàn khép kín của không gian và thời gian, chính như nỗi đau không có điểm dừng của nàng Kiều. Tám câu thơ tiếp theo là nỗi nhớ của Kiều về người yêu, cha mẹ, trước hết là nàng nhớ về Kim Trọng:
“Tưởng người dưới nguyệt chén đồng…
Tấm son gột rửa bao giờ cho phai”
Đây là một nỗi nhớ kín đáo mà Kiều dành cho Kim Trọng, nàng cảm thấy tiếc nuối và xấu hổ khi đã không giữ được lời thề trăm năm. Sau nỗi nhớ về Kim Trọng, nàng nhớ về gia đình:
“Xót người tựa cửa hôm mai…
Sân lai gốc tử đã vừa người ôm”
Nghĩ về cha mẹ, Kiều không ngừng xót xa thương cảm, nàng đã không thể làm tròn chữ hiếu, không thể bên cạnh phụng dưỡng cho cha mẹ. Nàng nhớ người yêu trước, nhớ cha mẹ sau cũng là điều dễ đồng cảm, bởi nàng đã phá lời thề với Kim Trọng, phụ tấm lòng của chàng nên cảm thấy rất có lỗi. Còn với cha mẹ, nàng đã kịp báo hiếu phần nào, hơn nữa còn có em trai và Thúy Vân chăm lo. Đặc biệt trong tám câu thơ cuối bài, tâm trạng buồn đau của Thúy Kiều được diễn tả theo nhiều cung bậc khác nhau:
“Buồn trông ngọn nước mới sa…
Ầm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi”
Bốn cặp câu thơ lục bát với điệp từ “buồn trông” ở mỗi cặp câu vừa làm hiện lên bức tranh cảnh vật lại tô đậm tâm trạng của nàng Kiều. Nỗi buồn đau, xót xa ngày càng tha thiết, nàng hoang mang trước những dự cảm chẳng lành về một cuộc đời đầy rẫy những sóng gió, đau khổ.
Đoạn trích “Kiều ở lầu Ngưng Bích” là một bức tranh đầy tâm trạng, tâm trạng của nàng Kiều được đại thi hào Nguyễn Du diễn tả thật sinh động và chân thực. Qua tâm trạng đó, người đọc cảm nhận được cảnh ngộ đầy bi kịch, số phận bèo bọt của Thúy Kiều nói riêng và người phụ nữ trong xã hội cũ nói chung.
Nếu bạn muốn hỏi bài tập
Các câu hỏi của bạn luôn được giải đáp dưới 10 phút
CÂU HỎI LIÊN QUAN
Top thành viên trả lời