01/05/2024
02/05/2024
Trần Đăng Khoa là một nhà thơ với những áng ngôn từ giàu tình yêu với quê hương, đất nước và thiên nhiên. Nổi bật trong phong cách của Trần Đăng Khoa chính là ngôn từ trong trẻo, dễ gần. Tác phẩm Hạt gạo làng ta được xem là áng văn thơ nổi bật của ông. Phân tích bài thơ Hạt gạo làng ta để tỏ rõ được thông điệp về tình yêu đất nước, quê hương trong thơ văn của ông.
Trần Đăng Khoa quê gốc tại Hải Dương. Từ thuở còn nhỏ, Trần Đăng Khoa đã được nhiều người biết đến với năng khiếu làm thơ. Chỉ mới 8 tuổi, Trần Đăng Khoa đã có bài thơ đầu tiên đăng báo. 2 năm sau đó, tác phẩm đầu tiên của ông cũng đã được Nhà xuất bản Kim Đồng thông qua, có tựa là “Góc sân và khoảng trời”. Điều này thể hiện được niềm say mê tự nhiên với văn học nghệ thuật của Trần Đăng Khoa.
Trần Đăng Khoa đã có một khoảng thời gian nhất định làm việc trong quân ngũ. Ông cũng được xem là người rất ham học với khoảng thời gian du học tại Nga. Nhờ vào năng khiếu thiên bẩm cùng khoảng thời gian rèn luyện, học tập, Trần Đăng Khoa đã thể hiện được phong cách thơ văn tuyệt vời, thấm đượm tình yêu thương với quê hương. Việt Nam vốn dĩ là một quốc gia nông nghiệp, với nghề chính của người dân vẫn là nghề nông. Từ những xóm làng, địa phương trên khắp đất nước đều có sự xuất hiện của ruộng đồng. Hạt gạo sau khi thu hoạch được có màu sắc trắng sữa, tựa như những hạt ngọc của trời.
Hạt gạo làng ta
Có vị phù sa
Của sông Kinh Thầy
Có hương sen thơm
Trong hồ nước đầy
Có lời mẹ hát
Ngọt bùi đắng cay
Hạt gạo là nguồn lương thực quý báu cho con người, với những tâm hồn đầy chất thơ văn nghệ thuật của Trần Đăng Khoa. Hạt gạo còn mang trong mình hương vị Phù sa của sông Kinh Thầy. Phù sa là yếu tố quan trọng để trồng lúa nước, sự xuất hiện của hạt gạo có phần nhiều nhừ vào phù sa màu mỡ. Hình ảnh hạt gạo dường như gắn liền với những hình ảnh dung dị, quen thuộc nhất của làng quê Việt Nam. Những miêu tả của Trần Đăng Khoa về hạt gạo dường như thể hiện được sự trân quý của ông. Hạt gạo trắng sữa gắn liền với những chi tiết thân thuộc nhất, dân giã nhất, nhưng cũng quý báu nhất. Việc trồng được lúa nước là một trong những thành tựu nổi bật trong lịch sử loài ngược.
Hạt gạo làng ta
Có bão tháng bảy
Có mưa tháng ba
Giọt mồ hôi sa
Những trưa tháng sáu
Nước như ai nấu
Chết cả cá cờ
Cua ngoi lên bờ
Mẹ em xuống cấy..
Thông qua những câu thơ đơn giản, tác giả đã làm nổi bật lên bức tranh khó khăn của việc trồng lúa gạo. Những cơn bão vào tháng bảy, cơn mưa vào tháng ba khiến những ruộng đồng ngập trong biển nước. Những ngày tháng sáu, trời trưa nắng nóng như chảy lửa, nước như “ai nấu”, khiến cho cá cờ chết, cua phải ngoi lên bờ. Nhưng vào thời điểm này, người mẹ vẫn xuống cấy láu. Điều này thể hiện được sự gian khổ, khó khăn, hy sinh của những người nông dân đối với công việc trồng lúa. Việc trồng lúa trong những năm tháng của cuộc chiến tranh còn thêm khó khăn bội phần.
Những năm bom Mĩ
Trút lên mái nhà
Những năm khẩu súng
Theo người đi xa
Những năm băng đạn
Vàng như lúa đồng
Năm tháng chiến tranh đầy khó khăn khiến cho những cánh đồng trồng trọt của người nông dân chìm trong biển lửa. Những người nông dân trong thời điểm chiến tranh không chỉ phải tăng gia sản xuất, mà còn đóng vai trò hậu phương để quan đội ta tiếp tục cuộc trường kỳ kháng chiến. Thể thơ bốn chữ ngắn gọn với nhịp thơ được xây dựng uyển chuyển. Điều này giúp câu chuyện về hạt gạo làng ta dường như trở nên nhẹ nhàng, đơn giản nhưng cũng rất sâu sắc. Tác phẩm Hạt gạo làng ta là bài ca nhẹ nhàng về cuộc sống gắn liền với ruộng đồng và lúa gạo của người nông dân. Thông qua phân tích bài thơ hạt gạo làng ta, có thể thấy được tình yêu đất nước, non sông đến từng chi tiết nhỏ nhất của Trần Đăng Khoa.
Quê hương không phải là những điều to lớn, bao la, mà còn là những điều bình dị, nhỏ bé hiện hữu trong cuộc sống này. Biết trân quý những giá trị thiên nhiên, con người, chúng ta dường như càng yêu quý và trân trọng cuộc sống này.
02/05/2024
Trần Đăng Khoa được biết tới là một thi sĩ thần đồng với vô số những sáng tác rực rỡ viết về quê hương, tổ quốc, con người với giọng điệu trong trẻo, hồn nhiên. Trong số những tác phẩm của thi sĩ, có nhẽ “Hạt gạo làng ta” chính là bài thơ để lại nhiều những ấn tượng trong lòng độc giả. Bài thơ đã gợi lên tình yêu quê hương, tổ quốc, con người từ những hình ảnh rất đỗi bình dị và thân yêu của làng quê Việt Nam.
Hạt gạo làng ta
Có vị phù sa
Của sông Kinh Thầy
Có hương sen thơm
Trong hồ nước đầy
Có lời mẹ hát
Ngọt bùi đắng cay…
Việt Nam ta vốn là tổ quốc nông nghiệp với hình ảnh thân thuộc của ruộng đồng, thôn xóm, hạt gạo … Hạt gạo trắng sữa đã được xem như là hạt ngọc quý giá trời cho với vị phù sa nồng nàn của con sông Kinh Thầy thân thuộc, hương thơm thanh mát của hồ sen và xuất hiện trong cả những lời mẹ hát ru con với sự “ngọt bùi đắng cay” da diết.
Chính những hạt lúa nhỏ nhỏ, trắng tinh khôi đó chính là thứ mang lại nguồn lương thực và cả trị giá ý thức vô cùng lớn lao dành cho mọi người. Hình như, thi sĩ Trần Đăng Khoa đã mô tả vẻ đẹp của những hạt gạo bằng những hình ảnh thân thuộc, gắn bó với nhân dân nhưng lại là những gì đẹp tươi nhất và tinh túy nhất.
Hạt gạo làng ta
Có bão tháng bảy
Có mưa tháng ba
Giọt mồ hôi sa
Những trưa tháng sáu
Nước như ai nấu
Chết cả cá cờ
Cua ngoi lên bờ
Mẹ em xuống cấy…
Qua những dòng viết của thi sĩ, ta thấy hiện lên biết bao nhiêu những trở ngại làm tác động tới việc canh tác, cấy cày. Trở ngại đó phần lớn tới từ sự khắc nghiệt của tự nhiên, khí hậu.
Chắc hẳn ta vẫn nhớ một bài ca dao rất đỗi thân thuộc của ông cha: “Người nào ơi bưng bát cơm đầy” – “Dẻo thơm một hạt đắng cay muôn phần”. Cái “đắng cay” phải chăng chính là nỗi cực nhọc của người nông dân lúc phải đương đầu với những trở ngại của tự nhiên. Đó là bão giông lúc tháng bảy về, là mưa tuôn lúc tháng ba tới và trời nắng như cháy da bỏng thịt của những trưa tháng sáu. Những biến động đó của thời tiết là những thử thách rất lớn đối với cây lúa vốn là loại thân mềm lại rỗng ở phía bên trong. Thế nhưng những thử thách đó dù có lớn tới như thế nào thì cũng không thể làm khó được con người.
Không đổ mồ hôi rơi nước mắt, nhưng mà người mẹ trong bài thơ cũng như rất nhiều những người nông dân khác đều phải trải qua rất nhiều những nặng nhọc chỉ mong có thể lấy công sức đó đổi lấy những hạt lúa căng tròn và chén cơm mát ngọt. Điều đó làm cho ta có thể cảm thu được những phẩm chất lao động đáng quý của người nông dân Việt Nam. Dù cho bão táp, mưa dầm, nắng rọi làm cho “nước như người nào nấu”, họ vẫn ko quản nặng nhọc, vẫn chịu khó, siêng năng làm lụng chỉ để mong có một mùa thu hoạch thuận tiện, để cuộc sống được đủ đầy hơn, no đủ hơn,…
Hạt gạo làng ta
Những năm bom Mỹ
Trút trên mái nhà
Những năm cây súng
Theo người đi xa
Những năm băng đạn
Vàng như lúa đồng
Những câu thơ trên đã tái xuất hiện quang cảnh tổ quốc trong những năm cuộc kháng chiến chống Mĩ diễn ra vô cùng khốc liệt. Để tàn phá tổ quốc ta, chúng ko ngại đổ xuống đất ta vô vàn những trận mưa bom, bão đạn với sức hủy diệt gớm ghê. Trước hoàn cảnh đó, bao lớp thanh niên đã đi theo tiếng gọi của tình yêu tổ quốc để xung phong vào trận mạc làm nhiệm vụ chống lại quân thù, bảo vệ nền hòa bình cho tổ quốc. Đó là nhiệm vụ rất đỗi lớn lao.
Lúc này, những người ở lại đảm nhiệm một vai trò cũng lớn lao ko kém, là một hậu phương vững chắc bằng cách tăng gia sản xuất để có thể làm ra lúa gạo cung ứng cho quân nhân ta. Phân tích bài thơ Hạt gạo làng ta, người đọc cũng thấy quá trình làm ra hạt gạo đã ko hề dễ dàng vì sự xuất hiện của những hiện tượng thời tiết khắc nghiệt như đã nói, nhưng những người nông dân đã vượt qua rất xuất sắc.
Đó vậy nhưng mà bao nhiêu thành tích lao động sắp được gặt hái thì lại đứng trước nguy cơ bị tàn phá ko tiếc thương của bom đạn quân thù. Hình ảnh băng đạn của giặc “vàng như lúa đồng” đã cho thấy sức tàn phá vô cùng của chiến tranh. Vậy là người nông dân phải ra sức bảo vệ lấy chúng để rồi vẫn dành cho đời, nhất là những anh quân nhân chiến sĩ những thành tích ngọt ngào:
Bát cơm mùa gặt
Thơm hào giao thông…
Hoàn cảnh của chiến tranh tuy có nghiệt ngã, khốc liệt nhưng lại là dịp để làm nổi trội lên ở người nông dân ý chí, lòng quyết tâm, sự can trường và ý thức sẵn sàng đương đầu với mọi khó khăn, thử thách. Dù có lúc sự nguy hiểm dọa nạt tới sinh mạng con người nhưng họ vẫn ko hề lùi bước để có được “bát cơm mùa gặt” – “thơm hào giao thông”.
Tương tự, họ thật sự đã trở thành tấm gương, là hậu phương vững vàng và đồng thời cũng là động lực để cho những người chiến sĩ nơi chiến trường có thêm lí do để quyết tâm đấu tranh và mang về thắng lợi. Và quả thực, cuộc kháng chiến chống Mĩ của ta đã đi từ thắng lợi này tới thắng lợi khác để rồi cuối cùng cả hai miền Nam – Bắc được vui thú vui thống nhất… Phân tích bài thơ Hạt gạo làng ta sẽ nhìn thấy thành tích đó đương nhiên được tạo nên ko chỉ từ một cá thể, một tổ chức nhưng mà lại hợp sức và đồng lòng của cả tổ quốc, dân tộc.
Như đã nói, để làm nên sự thắng lợi thì cần tới sự hợp lực của đông đảo mọi người, với công việc sản xuất cấy cày ở địa phương, ko chỉ có người lớn nhưng mà trẻ em cũng có thể tham gia như một sự đóng góp cho công viêc chung của tổ quốc:
Hạt gạo làng ta
Có công các bạn
Sớm nào chống hạn
Vục mẻ miệng gàu
Trưa nào bắt sâu
Lúa cao rát mặt
Chiều nào gánh phân
Quang trành quết đất
Hình ảnh những bạn nhỏ xuất hiện tạo nên một ko khí mới cho đoạn thơ dù ở đoạn thơ trước đó tác giả trình bày sự căng thẳng, nguy hiểm của trận mạc. Phân tích bài thơ Hạt gạo làng ta, người đọc nhận thấy dù còn ở tuổi nhỏ nhưng những đứa trẻ đã biết phụ tạo điều kiện cho gia đình những công việc tuy nhỏ nhưng ko kém phần quan trọng. Điều này đã giúp những cánh đồng có thể tăng trưởng tốt nhất: nào là tưới nước để lúa ko bị khô cằn vì nắng hạn, nào là bắt sâu ban trưa để chúng ko thể phá hoại cây và cả gánh phân chăm bón để cây lúa có chất dinh dưỡng và tăng trưởng được tốt nhất.
Những bạn nhỏ đó đã làm việc với ý thức hăng say ko khác gì người lớn. Điều đó khiến ta như cũng thấy thêm hoan hỉ, tự hào vì công cuộc xây dựng tổ quốc có cả sự góp sức của sức trẻ. Tương tự, có thể thấy thế hệ nào cũng có thể đóng góp một phần công sức của mình vào sự nghiệp chung của dân tộc, dù nhỏ thôi nhưng đã trình bày tấm lòng thật tình dành cho quê hương xứ sở. Riêng những bạn nhỏ trong bài thơ, chính nhờ vào bàn tay góp sức nhưng mà hạt gạo trắng thơm được gửi đi tới khắp muôn nơi và mang tới biết bao nhiêu thú vui cho cả người cho và nhận:
Hạt gạo làng ta
Gửi ra tiền tuyến
Gửi về phương xa
Em vui em hát
Hạt vàng làng ta…
Phân tích bài thơ Hạt gạo làng ta dễ dàng nhìn thấy tác giả nhắc nhiều tới từ “hạt gạo”, thế nhưng trong đoạn thơ này, tác giả đã gọi hạt gạo là “hạt vàng”. Thi sĩ dường như muốn trình bày sự trân trọng đối với trị giá vô cùng quý giá của hạt gạo đó. Nó ko chỉ quý vì có thể giúp con người ấm lòng no bụng nhưng mà còn quý vì chứa đựng biết bao nhiêu mồ hôi, nước mắt và sự nỗ lực của những người làm ra.
Có thể thấy bài thơ “Hạt gạo làng ta” dù được sáng tác bởi một Trần Đăng Khoa nhỏ tuổi nhưng lại trình bày những suy nghĩ của một người chín chắn, trưởng thành. Sau những vần thơ ngắn gọn đó, ta cảm thu được sự quý giá của hạt gạo nói riêng và thành tích của người lao động nói chung. Từ sự cảm nhận đó, ắt hẳn thi sĩ cũng mong muốn mỗi người hãy biết góp sức xây dựng và đồng thời phải biết trân trọng những thành tích ngọt ngào được làm ra.
01/05/2024
Nếu bạn muốn hỏi bài tập
Các câu hỏi của bạn luôn được giải đáp dưới 10 phút
CÂU HỎI LIÊN QUAN