18/05/2024
18/05/2024
18/05/2024
Mở đầu bài thơ "Tiếng hát con tàu", nhà thơ Chế Lan Viên hạ bút:
"Tây Bắc ư, có riêng gì Tây Bắc
Khi lòng ta đã hóa những con tàu
Khi Tổ quốc bốn bề lên tiếng hát
Tâm hồn ta là Tây Bắc, chứ còn đâu?"
Tây Bắc – mảnh hồn thiêng của núi sông, miền đất hứa nâng giấc cho biết bao câu bút gạo cội. Nếu Nguyễn Tuân đến đây vì "thứ vàng mười đã qua thử lửa" qua tuỳ bút "Người lái đò sông Đà" thì Tô Hoài lại thăng hoa trên mảnh đất này với tập "Truyện Tây Bắc" mà linh hồn của nó là truyện ngắn "Vợ chồng A Phủ". Thưởng thức từng trang văn, độc giả không khỏi ấn tượng với "nàng dâu gạt nợ" của nhà thống lí Pá Tra – Mị. Đặc biệt, đoạn trích trên đã cho ta thấy rõ hơn về sức sống tiềm tàng mãnh liệt của nhân vật Mị, sức sống tiềm tàng của những con người luôn khát khao tìm đến tự do, hạnh phúc:
"Bây giờ Mĩ cũng không nói. Mị đến góc nhà, lấy ống mỡ, xắn một miếng bỏ thêm vào đĩa đèn cho sáng.. Cho tới lúc trời tang tảng rồi không biết sáng từ bao giờ"
Người yêu văn chương hẳn không còn xa lạ với tên tuổi nhà văn Tô Hoài - cây đại thụ tỏa bóng xuống cánh rừng văn học Việt Nam hiện đại. Đó là cuộc đời sáng tạo và bền bỉ không ngừng với số lượng tác phẩm đạt tới mức kỉ lục: Gần 200 đầu sách. Với vốn hiểu biết phong phú, ngôn ngữ trong sáng, gần gũi, tác phẩm của Tô Hoài đã thu hút được nhiều thế hệ độc giả.
"Vợ chồng A Phủ" được sáng tác năm 1952, in trong tập "Truyện Tây Bắc" cùng "Mường Giơn" và "Cứu đất cứu Mường". Tác phẩm là kết quả chuyến đi thực tế dài tám tháng cùng bộ đội vào giải phóng miền Tây Bắc của nhà văn. Tác phẩm gồm hai phần: Phần đầu kể về cuộc sống tủi nhục của Mị và A Phủ ở Hồng Ngài, là nô lệ trong nhà thống lí Pá Tra. Kết thúc phần đầu là cảnh Mị cắt dây trói cứu A Phủ và cùng A Phủ trốn khỏi nhà Pá Tra. Phần sau kể Mị và A Phủ ở Phiềng Sa, họ thành vợ chồng, được cán bộ A Châu giác ngộ cách mạng. A Phủ trở thành đội trưởng du kích đánh Pháp bảo vệ làng.
Đoạn trích trên nằm ở phần đầu tác phẩm, cho ta thấy rõ hơn về sức sống tiềm tàng mãnh liệt của nhân vật Mị, sức sống tiềm tàng của những con người luôn khát khao tìm đến tự do, hạnh phúc.
Tô Hoài đã từng quan niệm rằng: "Nhân vật là linh hồn và là trụ cột của tác phẩm" . Đặc biệt trong văn xuôi với thể loại truyện ngắn, một tác phẩm có thành công hay không phụ thuộc hoàn toàn vào nhân vật tham gia bởi nhân vật là trung tâm của câu truyện, có nhân vật mới có thể xây dựng được cốt truyện, diễn biến truyện, việc xây dựng nhân vật chính là dụng ý của nhà văn để thể hiện rõ được nội dung và tình cảm.
Trong tác phẩm "Vợ Chồng A Phủ" Mị là nhân vật chính của câu chuyện. Trước khi về làm dâu nhà thống lí, Mị vốn là một cô gái vùng cao trẻ trung, xinh đẹp, hồn nhiên, có tài "thổi lá cũng hay như thổi sáo, có biết bao nhiêu người mê", nhưng vì món nợ truyền kiếp, Mị bị bắt về làm dâu gạt nợ cho nhà thống lí Pá Tra. Cuộc sống làm dâu của Mị không hề dễ dàng: Bị bóc lột sức lao động, làm việc quần quật suốt ngày đêm; bị chà đạp về quyền sống "không bằng con trâu con ngựa"; và bị hủy diệt về tinh thần "mỗi ngày, Mị càng không nói, lùi lũi như con rùa nuôi trong xó cửa". Mùa xuân đến, khi nghe tiếng sáo gọi bạn tình tha thiết Mị lại nhớ mình hồi còn trẻ, Mị muốn đi chơi nhưng lại bị A Sử chồng của Mị trói đứng vào cột nhà. Để từ đây, ta thấy được sống sức tiềm tàng của nhân vật Mị
Khát vọng của Mị không chỉ tồn tại trong suy nghĩ, trong tâm trạng, trong cảm xúc mà nó còn tồn tại trong cả hành động của Mị.
"Mị đến góc nhà, lấy ống mỡ, xắn một miếng bỏ thêm vào đĩa đèn cho sáng, Mị muốn đi chơi, Mị cũng sắp đi chơi. Mị lại quấn tóc, Mị với lấy cái váy hoa vắt ở phía trong vách", "Mị rút thêm cái áo" chuẩn bị đi chơi. Ở đây tác giả đã sử dụng một loạt các động từ như "đến," xắn "," bỏ "." Đi chơi "," cuốn "," lấy "và" rút ", những hạnh động đó đã thể hiện cái khát vọng trào sôi, khát vọng được tự do hạnh phúc của Mị. Những động từ đó đã làm cho hành động của Mị trở nên mạnh mẽ và cương quyết, táo bạo hơn, đó là lúc mà ngọn lửa khao khát tự do đang cháy lên trong Mị, cái khao khát được hòa mình với cuộc sống tươi sáng, mới mẻ hơn. Vừa là những hạnh động đấu tranh lặng lẽ, âm thầm, tự phát nhưng thật quyết liệt với số phận của Mị. Bất chấp sự hiện diện của A Sử - cái bóng đêm của cường quyền bạo ngược của thần quyền giờ đây không thể vùi dập Mị bởi khát vọng tự do của Mị lúc này lớn hơn tất cả mọi nỗi sợ hãi.
Một lần nữa cái sức sống tiềm tàng mãnh liệt của nhân vật Mị tiếp tục được bùng cháy ngay cả trong hoàn cảnh bị vùi dập thật độc ác. Khi bị A Sử trói, Mị cũng không biết mình đang bị trói, Mị vẫn sống trong cái ảo giác của hạnh phúc – thứ ảo giác do men tình và men rượu mang lại. Hiện thực và ảo giác hòa trộn, Mị lúc mê lúc tỉnh, Mị mông di, Mị ảo giác. Cũng chính lúc này đây thì sức sống tiềm tàng mãnh liệt trong con người lao động được bộc lộ sâu sắc và mãnh liệt nhất. Chính sức sống ấy đã làm cho Mị quên đi cái nỗi đọa đày, khổ nhục, quên cả đớn đau về thể xác. Câu văn mở ra một hình ảnh tội nghiệp của Mị " Trong bóng tối. Mị đứng im lặng, như không biết mình đang bị trói ". Cái sự im lặng như không biết mình đang bị trói ấy không phải là sự vô cảm, sự nhẫn nhục thường thấy ở người đàn bà này mà đây chính là lúc mà thể xác của Mị đã không còn cảm nhận được nỗi đau. Bởi thể xác của Mị nằm đây giữa bốn cái bức tường lạnh lẽo nhưng tâm hồn của Mị thì vẫn đang ở ngoài kia – ngoài thế giới của thiên đường mênh mông tiếng sáo gọi bạn tình và men rượu còn chưa tan. Men rượu còn nồng nàn còn trong Mị cho nên hương rượu đã quyện hòa trong hương thơm của men tình dặt dìu theo tiếng sáo. Nếu trước đó, tiếng sáo là tác nhân đã phá tan cái lớp băng vô cảm đã mở toang cái cánh cửa trải tim của Mị để đón nhận hương đời thì nay tiếng sáo lại trao cho Mị chiếc chìa khóa vàng để khát khao sống khát khao yêu của Mị được dịp bùng cháy. Đây là lúc trong cơn say tiếng sáo lại một lần nữa đến bên Mị, cứu rỗi linh hồn Mị, dìu Mị đi trong những cuộc chơi những đám chơi, tình yêu của Mị dành cho tuổi trẻ trong cuộc đời vẫn còn nồng nàn, lại được tiếng sáo nâng đỡ dìu dắt khiến cho tình yêu ấy càng trở nên đắm say ngày ngất. Tiếng sáo đã không còn lửng lơ bay ngoài đường nữa mà còn nhập vào hồn Mị, tâm hồn Mị như cùng rung lên cũng nhịp sáo " Em không yêu, quả pao rơi rồi. Em yêu người nàa, em bắt pao nào.. " . Có thể nói tiếng sáo chính là chi tiết hay nhất trong đêm tình mùa xuân, và đây cũng chính là" hạt bụi vàng "của tác phẩm. Nhờ có chi tiết đó mà người đọc chúng ta có thể nhìn thấy được cái cảm xúc, cái tâm trạng cũng như cái sự hồi sinh mạnh mẽ mãnh liệt của Mị. Tiếng sáo là biểu tượng cho thế giới tự do; là hiện thân tài năng của tuổi trẻ kí ức tươi đẹp của Mị. Chính vì thế mà tiếng sáo là âm thanh hay nhất, lay động nhất tới sự hồi sinh của nhân vật
Sức mạnh tiếng sáo và giấc mơ tự do khiến Mị quên đi cái thực tại ê chề, lúc mê thì Mị sống trong hơi rượu tỏa, còn lúc tỉnh thì lại nồng nàn tha thiết nhớ, lúc mê lại đi theo tiếng sáo mênh mang gọi bạn tình và đúng như Tô Hoài từng nhận định: " Tiếng sáo kia quá tha thiết quá mạnh mẽ, nó dìu dắt hồn Mị bay lên trên hoàn cảnh, đó là biểu tượng niềm khát sống khát khao yêu. Ở đây là lòng khát khao tự do nữa và tâm hồn Mị như đang thăng hoa cùng với tiếng sáo gọi bạn tình, và đó chính là cái thế giới nội tâm là cái ảo giác hạnh phúc và cơn mộng du đẹp đẽ của Mị ". Nhưng cũng chính tiếng sáo chính là cái tác nhân khắc sâu thêm cái bi kịch của Mị. Bởi khi tiếng sáo đã nhập hồn Mị, nó đã làm cho Mị quên đi cái thực tại đau buồn, khi nghe tiếng sáo thì " Mị vùng bước đi ". Bốn chữ " Mị vùng bước đi " thật ngắn gọn nhưng nó hàm chứa trong đó là cái sức sống tiềm tàng mãnh liệt. Câu văn quả thật được viết rất tinh tế và sâu sắc, nó gợi cho ta ra biết bao nhiều suy tưởng về Mị, làm sao Mị có thể vùng bước đi khi đang bị trói bằng cả thúng sợi đay? Nhưng ở đây Mị đã vùng bước đi thật, Mị không có ý thức được hoàn cảnh thực tại bởi Mị là kẻ mộng du đang lang thang với giấc mơ tự do của mình.
Chi tiết Mị vùng bước đi nó đã mình chứng cho ta thấy cái sức sống mãnh liệt trong tâm hồn Mị, đó không còn là một cô Mị cúi mặt buồn rười rượu mà đó là một cô Mị giàu năng lượng sống. Mị vùng bước đi nghĩa là Mị không sống trong thực tại, Mị đang sống trong men trong những giai âm tiếng sáo gọi bạn yêu. Tâm hồn ấy đang đến với tự do đang tràn trề nỗi yêu đương cửa tuổi trẻ, chỉ khi tay chân đau không cựa quậy được Mị mới thoát khỏi cơn mộng du của mình. Lúc này, chỉ còn nghe thấy tiếng chân ngựa, tiếng chân ngựa đạp vào vách, nhai cỏ, gãi chân là những âm thanh của thực tại, đưa Mị trở lại với sự liên tưởng đau đớn bởi kiếp sống không bằng con ngựa của mình.
Vậy mà, dù đã trở lại với thực tại tàn nhẫn, suốt đêm mùa xuân ấy, quá khứ vẫn nồng nàn tha thiết trong nỗi nhớ của Mị với hơi rượu tỏa, tiếng sáo rập rờn, tiếng chó sủa xa xa.. Mị phải sống trong giằng xé đau đớn giữa những khát khao cháy bỏng vừa hồi sinh và thực tại phũ phàng đang hiện hữu ngay trong sợi day trói và căn buồng giam đầy bóng tối. Sức sống cũng những khát vọng đã trở lại và cũng bị vùi dập tàn nhẫn, nhưng sau đêm hội mùa xuân ấy, có lẽ nó sẽ mãi còn ám ảnh, thao thức trong lòng Mị, dù chỉ là mơ hồ, xa thoảng. Sau bao nhiều năm tháng, Mị đã tỉnh táo nhận ra thân phận trâu ngựa của mình, đã thổn thức nghĩ mình không bằng con ngựa nhà thống lí. Khi nhận ra sự khổ ải, cảm nhận sự khổ ải sẽ càng thấm thía. Từ nay, có lẽ Mị không thể yến ổn với những suy nghĩ buông xuôi, cam chịu của mình để tiếp tục sống cảnh trâu ngựa cho đến chết. Khát vọng hạnh phúc, khát vọng tình yêu trong tuổi tre đã hồi sinh, đã bị vùi dập và đang chờ đợi một ngọn gió thổi bùng lên lần thứ hai.
Như vậy rõ ràng là cường quyền và thần quyền tàn bạo không thể dập tắt nổi khát vọng hạnh phúc, tình yêu nơi Mị. Cuộc nổi loạn tuy không thành công những nó đã cho người đọc thấy sức mãnh liệt trong những người nông dân tưởng chừng như nhỏ bé, khốn nhổ nhất.
Bút pháp miêu tả tâm lí sắc sảo, tinh tế, cách dẫn dắt tình tiết khéo léo tự nhiên. Giọng văn trần thuật của tác giả hòa vào những cuộc độc thoại nội tâm của nhân vật tạo nên ngôn ngữ nửa trực tiếp nửa đặc sắc. Cách nhìn mới mẻ, tin yêu về người nông dân cho thấy tài năng quan sát, miêu tả thiên nhiên, phong tục tập quán, đặc biệt là khả năng diễn tả quá trình phát triển tình cách nhân vật hợp lí, phức tạp mà sâu sắc, phù hợp với quy luật phép biện chứng tâm hồn của nhà văn – người có duyên nợ với mảnh đất và con người Tây Bắc. Tô Hoài đã dựng lên sức sống hình tượng của nhân vật Mị một cách thuyết phục khiến đọc giả không nào quên được.
Nhà văn Sê-khốp từng khẳng định: Nhà văn chân chính là phải nhân đạo từ trong cốt tủy. Quả đúng như vậy, văn là người, cho nên con người như nào thì văn chương cũng sẽ như vậy. Nhà chân chính phải đứng trong lao khổ cuộc đời để đón những vang vọng cuộc đời. Chính vì thế, văn học phải hướng tới cuộc sống, phải khơi gợi được những tình cảm nhân văn cao đẹp, đánh thức được lòng trắc ẩn đang ngủ sâu trong trái tim mỗi người đọc. Văn chương phải giúp ta người hơn. Từ những điều trên, ta có thể khẳng định nhà văn Tô Hoài đã hoàn thành sứ mệnh của một nhà văn chân chính khi tạo ra những trang viết chan chứa giá trị nhân đạo.
" Vợ Chồng A Phủ "đã lên án tố cáo các thế lực tàn bạo cướp đoạt quyền sống quyền làm người của người dân miền núi Tây Bắc. Nhà căn đã cho ta thấy rõ được sự tủi nhục của nhân dân ta, và điển hình như nhân vật Mị, sống là người nhưng bị đày đọa, bóc lột như" kiếp trâu ngựa ", khốn khổ, nhục nhã ê chề. Hiện thực rõ về số phận người nông dân khi bị bọn thực dân phong kiến đọa đầy.
" Văn học là cuộc đời.. Cuộc đời là nơi xuất phát cũng là nơi đi tới của văn học ", mỗi người nghệ sĩ lớn đều ý thức được đucợ mối quan hệ chặt chẽ giữa văn học và đời sống. Đời sống là nguồn đề tài không bao giờ vơi cạn cho những sáng tác đầy nảy nở, bước đi trên từng nẻo đường là một giọt chắt chiu tư tưởng được hình thành.
Đó chính là chủ nghĩa nhân đạo Cách Mạng, gắn tình yêu thương với đấu tranh, gắn niềm tin vào tưởng lai đầy triển vọng của con người. Đó chính là sự diễn tả hợp lí những nghịch cảnh, những diễn biến phức tạp trong tâm hồn Mị, giúp nhà văn phần nào đạt đến cái gọi là" phép biện chứng tâm hồn. Cùng với cốt truyện sáng tạo, tình huống truyện độc đáo hấp dẫn, nghệ thuật kể chuyện giản dị, "Vợ chồng A Phủ" vẫn giữ nguyên vẹn sức hấp dẫn của mình qua hàng nghìn thế kỉ.
"Nghệ thuật nằm ngoài quy luật của sự băng hoại, chỉ mình nó không thừa nhận cái chết" (Schedrin). Để làm được điều đó, nghệ thuật phải hướng đến con người với một tinh thần nhân đạo sâu sắc. Và như thế, tôi tin rằng "Vợ chồng A Phủ" là một tuyệt tác trường tồn. Áng văn ấy, cùng tên tuổi nhà văn Tô Hoài – một nhà văn, nhà nhân đạo chủ nghĩa sẽ còn sống mãi, ghi một dấu ấn không phải trong nền văn học nước nhà.
"Ta bây giờ như chồi non mọc lại
Rón rén xanh, khe khẽ tự vươn mình
Đã bao lần tưởng úa tàn hoang dại
Nhưng rồi lại cựa quậy đón bình minh."
Nếu bạn muốn hỏi bài tập
Các câu hỏi của bạn luôn được giải đáp dưới 10 phút
CÂU HỎI LIÊN QUAN
2 giờ trước
Top thành viên trả lời