có ý kiến cho rằng: "thơ ca bắt rễ từ lòng người, nở hoa nơi từ ngữ" em hiểu ý kiến trên ntn? Phân tích bài thơ em yêu thích để lm sáng tỏ ý kiến trên

thumb up 0
thumb down
Trả lời câu hỏi của Hà Vũ
  • Câu trả lời phải chính xác, đầy đủ dựa trên kiến thức xác thực:
    • ✔ Đối với câu hỏi trắc nghiệm: Đưa đáp án lựa chọn + giải thích lý do chọn đáp án.
    • ✔ Đối với câu hỏi tự luận: Đưa lời giải và đáp án cho câu hỏi.
    • ✔ Đối với câu hỏi trả lời ngắn: Đưa ra đáp án + giải thích lý do.
    • ✔ Chấp nhận sử dụng ảnh do thành viên viết tay, ảnh cần rõ nét, không bị mờ, vỡ ảnh.
  • Sử dụng ngôn ngữ rõ ràng, dễ hiểu.
  • Tránh đưa ra các ý kiến cá nhân mang tính chất chủ quan.
  • Nếu sử dụng thông tin từ nguồn khác, phải trích dẫn nguồn đầy đủ và chính xác.
  • Tuyệt đối không được sao chép các thông tin từ các trang khác, từ AI hoặc chatGPT.
CÂU TRẢ LỜI
avatar
Timi

15/08/2024

Trợ lý học tập AI - Câu trả lời này chỉ mang tính tham khảo
Có ý kiến cho rằng “Thơ ca bắt rễ từ lòng người, nở hoa nơi từ ngữ”. Ý kiến này đã khẳng định vai trò của cảm xúc trong việc tạo nên một tác phẩm thơ hay và sâu sắc. Thơ là thể loại văn học có tính chất trữ tình, thường được viết ra nhằm mục đích bày tỏ những tâm tư, tình cảm của con người trước cuộc sống. Vì vậy, nếu không xuất phát từ trái tim chân thành, thơ sẽ chỉ là những câu chữ khô khan, vô hồn. Tuy nhiên, điều đó không có nghĩa là thơ chỉ cần có cảm xúc mà không cần đến ngôn từ. Ngôn từ chính là phương tiện để nhà thơ truyền tải cảm xúc của mình đến với độc giả. Một tác phẩm thơ hay phải là sự kết hợp hài hòa giữa nội dung (cảm xúc) và hình thức (ngôn từ). Nếu như cảm xúc là linh hồn của thơ thì ngôn từ chính là cơ thể của nó. Cảm xúc và ngôn từ cùng nhau nâng đỡ, bổ sung cho nhau để tạo nên một tác phẩm thơ hoàn chỉnh. Bài thơ “Mùa xuân nho nhỏ” của Thanh Hải là một minh chứng tiêu biểu cho quan điểm này. Mở đầu bài thơ, Thanh Hải đã vẽ nên bức tranh mùa xuân thiên nhiên xứ Huế tươi đẹp, tràn đầy sức sống: 
“Mọc giữa dòng sông xanh
Một bông hoa tím biếc
Ơi con chim chiền chiện
Hót chi mà vang trời”
Bức tranh ấy được khắc họa bằng những nét vẽ đơn sơ nhưng lại rất gợi cảm. Dòng sông xanh - màu đặc trưng của xứ Huế vào mùa xuân, nổi bật lên trên đó là một bông hoa tím biếc. Màu tím vốn là gam màu lạnh, nay càng trở nên dịu dàng hơn khi đặt cạnh dòng sông xanh. Bông hoa ấy có thể là hoa lục bình hoặc hoa súng, đều mang vẻ đẹp giản dị, mộc mạc. Trên bầu trời cao rộng, tiếng chim chiền chiện hót vang lừng khiến cho không gian thêm phần náo nhiệt. Từ cảm thán “ơi” kết hợp với câu hỏi “hót chi” đã thể hiện tấm lòng thiết tha, trân trọng của nhà thơ đối với vẻ đẹp của thiên nhiên. Chỉ bằng vài nét vẽ đơn sơ, Thanh Hải đã phác họa nên bức tranh mùa xuân xứ Huế thật sinh động. Bức tranh ấy không chỉ đẹp về cảnh vật mà còn đẹp bởi âm thanh, ánh sáng và cả tấm lòng của thi nhân. Tiếp theo, nhà thơ đã bộc lộ niềm tự hào, kiêu hãnh về đất nước Việt Nam anh hùng: 
“Từng giọt long lanh rơi
Tôi đưa tay tôi hứng”
Giọt long lanh ở đây có thể là giọt sương mai, cũng có thể là giọt mưa xuân. Dù hiểu theo cách nào thì hình ảnh thơ vẫn gợi lên vẻ đẹp lấp lánh, tinh khôi của mùa xuân. Động từ “hứng” thể hiện sự trân trọng của nhà thơ đối với vẻ đẹp của thiên nhiên. Qua đó, ta thấy được tình yêu quê hương, đất nước tha thiết của nhà thơ Thanh Hải. Sau đó, nhà thơ đã bày tỏ khát vọng cống hiến cho đời: 
“Ta làm con chim hót
Ta làm một cành hoa
Ta nhập vào hoà ca
Một nốt trầm xao xuyến”
Nhà thơ muốn hóa thân thành con chim để dâng lên tiếng hót vui nhộn, hóa thân thành cành hoa để tỏa hương sắc cho đời. Đó là ước nguyện khiêm nhường nhưng đáng quý. Nhà thơ muốn góp vào bản hòa ca chung của đất nước dù chỉ là một nốt trầm nhỏ bé. Ước nguyện ấy thật khiêm tốn, giản dị nhưng cũng thật cao đẹp biết bao! Cuối cùng, nhà thơ đã gửi gắm lời nhắn nhủ tới thế hệ trẻ sau này: 
“Một mùa xuân nho nhỏ
Lặng lẽ dâng cho đời
Dù là tuổi hai mươi
Dù là khi tóc bạc”
“Mùa xuân nho nhỏ” là một ẩn dụ đầy sáng tạo thể hiện cho khát vọng cống hiến, hoà nhập, giãi bày nỗi lòng chân thành với cuộc đời. Điệp ngữ “dù là” kết hợp với hình ảnh hoán dụ “tuổi hai mươi”, “khi tóc bạc” đã nhấn mạnh sự trường tồn mãi mãi của khát vọng cống hiến. Lời thơ vừa đằm thắm, chân thành lại vừa thiết tha, sâu lắng. Có thể nói, “Mùa xuân nho nhỏ” là một bài thơ hay và giàu ý nghĩa. Thông qua bức tranh mùa xuân thiên nhiên xứ Huế, nhà thơ đã bày tỏ niềm tự hào, kiêu hãnh về đất nước Việt Nam anh hùng. Đồng thời, ông cũng thể hiện khát vọng cống hiến cho đời một cách thầm lặng, khiêm nhường. Bài thơ đã để lại trong lòng người đọc nhiều cảm xúc sâu lắng.
Hãy giúp mọi người biết câu trả lời này thế nào?
0/5 (0 đánh giá)
thumb up 0
thumb down
0 bình luận
Bình luận
avatar
level icon
Shataki

15/08/2024

$*$ Bn tham khảo nhé

Nhà thơ Vũ Đình Liên là một trong nhà thơ tiêu biểu lớp đầu của phong trào thơ mới. Thơ của ông thường đậm chất thương người và nỗi niềm hoài cổ. Bài thơ "Ông đồ" chính là một trong những bài thơ tiêu biểu và thành công nhất của nhà thơ Vũ Đình Liên trong phong trào thơ mới. Có ý kiến cho rằng "Thơ ca bắt rễ từ lòng người, nở hoa nơi từ ngữ". Và em thấy ý kiến này thật đúng với bài thơ Ông đồ. Bài thơ Ông đồ đã thể hiện được nỗi niềm và sự thương cảm của nhà thơ đối với một thế hệ những người bị lãng quên trong sự chuyển giao của xã hội và thời thế. Ông đồ chính là đại diện của vẻ đẹp của Nho giáo, của thú vui chơi chữ một thời nay bị lãng quên trong thời kỳ chuyển giao sang xã hội nửa phong kiến, nửa thực dân. Tình cảm mà nhà thơ truyền tải đã chứ đựng và truyền tải trong từng dòng thơ.

Hai khổ thơ đầu của bài thơ Ông đồ đã thể hiện được thời kỳ mà ông đồ hay Nho học vẫn còn được ưa chuộng. Câu thơ "Mỗi năm hoa đào nở/Lại thấy ông đồ già" cho thấy một sự thường niên theo năm cứ vào mùa xuân tết đến xuân về là các ông đồ lại xuất hiện bên đường. Ông xuất hiện với "mực tàu, giấy đỏ" là những biểu tượng không thể thiếu một thời của nền Nho học, của thú vui chơi chữ của người dân lúc bấy giờ. Vào thời kỳ đó, thú vui chơi chữ chính là nét đẹp văn hóa dân tộc của nhân dân VN. Họ sùng bài chữ Nho như một môn nghệ thuật và mua những nét chữ Nho đó về để treo trong nhà như một sự tinh hoa. Những dòng thơ tiếp theo đã thể hiện được sự ưa chuộng bậc nhất và sự tài hoa của ông đồ. Hình ảnh "Bao nhiêu người thuê viết....bay" đã thể hiện được sư tài hoa vô cùng của những nét chữ ông đồ. Dường như, người đọc hoàn toàn cảm nhận được sự thịnh hành và ưa chuộng của thú chơi chữ ông đồ lúc bấy giờ. 

Thế nhưng, hai khổ thơ tiếp theo đã thể hiện được sự chuyển biến của thời thế mà những người thuộc thế hệ trước như ông đồ dần bị quên lãng đến xót xa. "Nhưng mỗi năm mỗi vắng/Người thuê viết nay đâu?" chính là câu nghi vấn không có câu trả lời của chính ông đồ và tác giả về sự chuyển biến của xã hội. Những hình ảnh thơ "giấy đỏ buồn không thắm/ Mực đọng trong nghiên sầu" đã cho thấy một nỗi buồn thấm đượm cả không gian vì sự thay đổi thời thế của xã hội. Thật vậy, khi xã hội và đất nước chuyển sang giai đoạn du nhập văn hóa phương Tây và Nho học thất thế, ông đồ dường như cũng bị lãng quên và gạt ra khỏi lề của cuộc sống. Tác giả Vũ Đình Liên đã sử dụng biện pháp nghệ thuật nhân hóa qua từ "buồn không thắm, đọng trong nghiên sầu". Sự lãng quên và thất thế của ông đồ xưa, của nền văn hóa Nho học xưa như lan tỏa cả không gian. Kết quả là, giấy đỏ vì nỗi buồn ấy mà dường như chẳng còn sắc thắm, mực thì đọng lại. Phải chăng, hình ảnh giấy đỏ và mực là nỗi buồn thương của chính tác giả. Nỗi sầu và buồn của tác giả lan toả khắp không gian và in hằn lên đồ vật, gợi ra thời kỳ chuyển giao của thời đại. Tóm lại, hình ảnh thơ đã thể hiện nỗi buồn sâu sắc và man mác của tác giả, của thời thế về sự chuyển giao của xã hội, ông đồ và những lớp người xưa cũ bị lãng quên. Hình ảnh thơ tiếp theo cũng khiến cho người đọc cảm thấy vô cùng đau lòng và xót xa. "Ông đồ vẫn ngồi đấy/Qua đường không ai hay" cho thấy sự tồn tại của ông đồ hoàn toàn đi vào quên lãng đến xót xa. Ông như bất động và bị gạt ra khỏi lề của dòng chảy thời gian và không gian. Hình ảnh "Lá vàng rơi trên giấy/Ngoài giời mưa bui bay" cho thấy nỗi buồn buốt giá thấu tim can bao trùm cả không gian và lòng người. Lá vàng rụng xuống như sự lụi tàn của chính nền Nho học còn những hạt mưa chỉ làm lòng người trở nên đau xót và buồn thương. 

Khổ thơ cuối đã chính thức thể hiện việc ông đồ hoàn toàn bị quên lãng, một nét đẹp văn hóa dân tộc bị mai một và biến mất. Mùa xuân vẫn đến, người ta vẫn đi chơi hội nhưng lại chẳng thấy ông đồ ngày xưa nữa. Hình ảnh "những người muôn năm cũ" chính là hình ảnh ẩn dụ của những lớp người ngày xưa, lớp người từng một thời giữ gìn nét đẹp văn hóa dân tộc. Câu hỏi tu từ được đặt ở cuối bài thơ dường như không có câu trả lời của tác giả cho thấy sự đau đớn đến tột cùng của nhà thơ "Hồn ở đâu bây giờ?". Hồn ở đây chính là chỉ hồn cốt của dân tộc, của giá tị tinh hoa một thời đã qua.

Tóm lại, bài thơ đã thể hiện được nỗi lòng của nhà thơ Vũ Đình Liên về sự chuyển mình, về sự thay đổi đến xót xa của thời thế, đã đẩy một nét văn hóa dân tộc rơi vào quên lãng. Những tâm sự ấy của tác giả đã thể hiện bằng những vần thơ chan chứa cảm xúc dành cho những người thuộc thế hệ trước bị lãng quên.

Hãy giúp mọi người biết câu trả lời này thế nào?
0/5 (0 đánh giá)
thumb up 0
thumb down
0 bình luận
Bình luận

Nếu bạn muốn hỏi bài tập

Các câu hỏi của bạn luôn được giải đáp dưới 10 phút

Ảnh ads

CÂU HỎI LIÊN QUAN

FQA.vn Nền tảng kết nối cộng đồng hỗ trợ giải bài tập học sinh trong khối K12. Sản phẩm được phát triển bởi CÔNG TY TNHH CÔNG NGHỆ GIA ĐÌNH (FTECH CO., LTD)
Điện thoại: 1900636019 Email: info@fqa.vn
location.svg Địa chỉ: Số 21 Ngõ Giếng, Phố Đông Các, Phường Đống Đa, Thành phố Hà Nội, Việt Nam.
Tải ứng dụng FQA
Người chịu trách nhiệm quản lý nội dung: Đào Trường Giang Giấy phép thiết lập MXH số 07/GP-BTTTT do Bộ Thông tin và Truyền thông cấp ngày 05/01/2024
Copyright © 2023 fqa.vn All Rights Reserved