câu 1: Bài thơ được viết theo thể thơ thất ngôn bát cú Đường luật
câu 2: - Giọng điệu châm biếm, mỉa mai, đả kích sâu cay vào bọn quan lại tham nhũng, thối nát, bất tài.
câu 3: Bài thơ phê phán những thói hư, tật xấu của con người là : nhà kia lỗi phép con khinh bố ,mụ nọ chanh chua vợ chửi chồng ,keo cú người đâu như cứt sắt tham lam chuyện thở rặt hơi đồng .
câu 4: - Tác dụng của những câu hỏi tu từ trong bài thơ là nhấn mạnh sự thật về xã hội phong kiến thối nát, mục ruỗng, bất công.
câu 5: Biện pháp tu từ được sử dụng là so sánh: "keo cú" như "cứt sắt", "tham lam" như "hơi đồng".
câu 6: - Tác giả đã sử dụng biện pháp tu từ đối lập để làm nổi bật lên sự tương phản giữa những điều tốt đẹp và những điều xấu xa trong xã hội. Trong hai câu thực, tác giả đã so sánh "phố phường" với "bờ sông", một bên là nơi đông đúc, nhộn nhịp còn một bên là nơi yên bình, thanh tịnh. Điều này cho thấy sự trái ngược giữa cuộc sống đô thị ồn ào, xô bồ với cuộc sống thôn quê êm đềm, giản dị. Trong hai câu luận, tác giả đã sử dụng biện pháp tu từ đối lập để thể hiện sự mâu thuẫn trong gia đình. Một bên là tình cảm cha con, mẹ con gắn bó, thiêng liêng còn một bên là sự bất hiếu, vô ơn của con cái đối với cha mẹ. Điều này cho thấy sự suy đồi đạo đức trong xã hội đương thời.
câu 7: Hình ảnh người vợ trong câu thơ "mụ nọ chanh chua vợ chửi chồng" gợi lên sự chua ngoa, đanh đá của một người phụ nữ. Điều này có thể khiến ta liên tưởng đến những mâu thuẫn, bất hòa trong cuộc sống gia đình. Tuy nhiên, cũng cần nhìn nhận vấn đề từ nhiều phía để đánh giá đúng bản chất của sự việc.
câu 8: Tú Xương là một trong những gương mặt xuất sắc của làng văn chương Việt Nam giai đoạn cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX. Ông được biết đến qua nhiều tác phẩm trào phúng đặc sắc, mang đậm tính thời đại. Trong đó, “Đất Vị Hoàng” là một trong những sáng tác nổi bật nhất của ông. Bài thơ đã khắc họa chân thực cảnh tượng tiêu điều, xơ xác của quê hương ông khi dịch bệnh hoành hành. Đồng thời, thông qua đó, Tú Xương cũng bày tỏ niềm xót xa trước tình cảnh khốn khó của nhân dân.
“Lờ đờ bóng ngả chăng hay
Chợ rồi lại mất cả ngày hôm nay.”
Hai câu thơ mở đầu gợi ra khung cảnh ảm đạm, vắng vẻ của chợ Tết. Chợ Tết thường là nơi đông vui, nhộn nhịp nhưng ở đây, mọi thứ đều chìm trong tĩnh lặng. Từ láy “lờ đờ” cùng nghệ thuật đảo ngữ nhấn mạnh trạng thái uể oải, mệt mỏi của ánh đèn. Bóng đèn chiếu xuống mặt đất, kéo dài ra nhưng chẳng ai để ý, hay đúng hơn là chẳng còn sức lực để mà chú ý. Cụm từ “chăng hay” càng tô đậm thêm sự vô hồn, vô cảm của con người nơi đây. Khung cảnh chợ Tết vốn là nơi hội tụ đủ thứ hàng hóa, là nơi mua bán tấp nập nhưng giờ đây, nó chỉ còn là cái chợ “rơi”, chợ “vãi”. Hai từ “rơi”, “vãi” vừa gợi ra âm hưởng trầm buồn của bức tranh làng quê nghèo khổ, tiêu điều vừa cho thấy sự xót xa, thương cảm của tác giả trước tình cảnh khốn khó của nhân dân.
“Buồng không da bọc lấy xương
Nhà kia lỗi phép con khinh bố
Mụ nọ chanh chua vợ chửi chồng
Keo cú người đâu như cứt sắt tham lam
Bắc Nam hỏi khắp người bao tỉnh
Có đất nào như đất ấy không?”
Bốn câu thơ tiếp theo tập trung miêu tả cuộc sống của con người nơi đây. Trước hết, đó là cuộc sống cơ cực, thiếu thốn về vật chất. Hình ảnh “buồng không da bọc lấy xương” gợi ra sự gầy gò, ốm yếu của con người. Họ phải chịu đựng cuộc sống đói rét, khổ sở nên thân thể mới trở nên tiều tụy như vậy. Tiếp đến, ba câu thơ sau đã phác họa bức tranh loạn lạc, rối ren của xã hội. Đầu tiên là cảnh con khinh bố, vợ chửi chồng. Đó là những hành động đi ngược lại với đạo lý làm người, khiến cho trật tự xã hội bị đảo lộn. Cuối cùng, Tú Xương vẽ nên hình ảnh những kẻ tham lam, ích kỉ bằng cách ví họ như “cứt sắt”. Đây là một hình ảnh rất thô tục, thể hiện sự căm ghét, khinh bỉ của tác giả đối với loại người này. Bốn câu thơ đã cho thấy cuộc sống khốn khổ, bần hàn của nhân dân. Họ không chỉ phải chịu đựng đói rét mà còn phải sống trong một xã hội đầy rẫy những bất công, ngang trái.
Câu hỏi tu từ ở cuối bài đã khẳng định rằng trên cõi đời này chẳng có mảnh đất nào đáng sợ như mảnh đất mà nhà thơ đang sống. Mảnh đất ấy chính là đất nước Việt Nam trong thời kỳ thực dân nửa phong kiến thối nát, đen tối. Ở đó, con người phải chịu đựng đủ mọi áp bức, bóc lột, bất công. Câu hỏi tu từ vừa thể hiện sự đau đớn, xót xa của tác giả trước tình cảnh khốn khổ của nhân dân vừa như một lời tố cáo đanh thép chế độ thực dân nửa phong kiến thối nát.
Bài thơ sử dụng thành công thể thơ thất ngôn bát cú Đường luật cùng ngôn ngữ giản dị, mộc mạc. Đặc biệt, việc sử dụng biện pháp tu từ đảo ngữ, câu hỏi tu từ đã góp phần quan trọng tạo nên giá trị nội dung cho tác phẩm.
Như vậy, “Đất Vị Hoàng” là một bài thơ giàu giá trị nhân văn sâu sắc. Qua bài thơ, chúng ta không chỉ cảm nhận được nỗi xót xa, thương cảm của Tú Xương trước tình cảnh khốn khổ của nhân dân mà còn hiểu hơn về hiện thực đen tối của xã hội lúc bấy giờ.
câu 9: Chủ thể trữ tình trong bài thơ là tác giả Trần Tế Xương.
câu 10: - Cách gieo vần: vần chân liền (vần bằng)
+ Đất/ ấy; phường/ sông; bố/ mụn; tham/ đồng
+ Lỗi/ khinh; chuyện/ đồng
- Ngắt nhịp: 2/3