Kim Lân là một nhà văn chuyên viết truyện ngắn của nền văn học hiện đại Việt Nam. Ông thường viết về nông thôn và người nông dân, rất thành công. Một số tác phẩm tiêu biểu có thể kể đến như “Vợ nhặt”, “Làng”… Trong đó, truyện ngắn “Vợ nhặt” được sáng tác năm 1954, in trong tập “Con chó xấu xí”. Tác phẩm đã phản ánh chân thực cuộc sống cơ cực, thảm thương của nhân dân ta trong nạn đói khủng khiếp năm 1945 đồng thời khẳng định niềm tin vào phẩm chất tốt đẹp của con người ngay cả trong hoàn cảnh khốn cùng nhất. Điều này được thể hiện rõ nét qua nghệ thuật kể chuyện độc đáo của Kim Lân.
Trước tiên, Kim Lân đã xây dựng được một cốt truyện vô cùng độc đáo. Tình huống truyện là một sự kiện chứa đựng mâu thuẫn hoặc chứa đựng điều bất ngờ, khiến câu chuyện trở nên hấp dẫn, thú vị. Đồng thời nó cũng bộc lộ tư tưởng chủ đề của tác phẩm và những triết lý mà tác giả muốn gửi gắm. Với truyện ngắn Vợ Nhặt, tình huống truyện chính là việc anh Tràng nghèo khổ, xấu xí, lại là dân ngụ cư thế nhưng lại lấy được vợ. Không chỉ vậy, anh Tràng còn đưa một người phụ nữ xa lạ về giữa ngày đói làm vợ, giữa cơn đói khát thê lương đang bủa vây khắp xóm làng. Gia đình anh cũng từ đây mà có thêm thành viên mới, không khí u ám, buồn bã vì đói khát bỗng nhiên thay đổi 180 độ, trở nên tươi vui, rộn ràng hơn. Mẹ Tràng từ người đàn bà cằn cỗi, luôn cau có, gắt gỏng sau cái đói thì nay cũng mở lòng hơn, sẵn sàng chấp nhận nàng dâu mới. Còn Tràng, từ một chàng trai vụng về, nhút nhát thì nay cũng trở nên yêu đời hơn, biết quan tâm tới mọi người xung quanh nhiều hơn. Và cuối cùng, thị, một người phụ nữ tưởng chừng chỉ coi trọng vật chất, theo Tràng về chỉ mong có miếng ăn thế nhưng khi nghe câu chuyện khó khăn của nhà chồng thì thị lại quyết định cùng Tràng vượt qua mọi thử thách phía trước.
Tiếp đến, Kim Lân đã sử dụng ngôi kể thứ ba để kể lại diễn biến câu chuyện. Ngôi kể này giúp cho tác giả dễ dàng linh hoạt trong việc miêu tả, khắc họa tính cách các nhân vật. Đồng thời, nhờ ngôi kể này mà mạch cảm xúc, diễn biến tâm trạng của từng nhân vật đều được bộc lộ rõ nét. Qua đó, tác giả cũng bày tỏ được những quan điểm, suy nghĩ riêng của mình về nội dung câu chuyện.
Bên cạnh đó, Kim Lân còn sử dụng kết cấu đầu cuối tương ứng, mang ý nghĩa khép kín, tạo ra một vòng quay tuần hoàn. Mở đầu tác phẩm là hình ảnh đám người đói và lá cờ đỏ bay phấp phới, kết thúc tác phẩm vẫn là hình ảnh đám người đói và lá cờ đỏ. Hình ảnh lá cờ đỏ tượng trưng cho phong trào Cách mạng tháng Tám, tin tức về cuộc kháng chiến chống Nhật của quân ta. Lá cờ ấy xuất hiện ở đầu truyện như một tín hiệu báo trước sự xuất hiện của những con người cần cù, lam lũ nhưng giàu tình yêu nước, tình yêu quê hương. Những con người ấy tuy phải chịu cảnh đói kém, lầm than nhưng vẫn luôn hướng về Cách mạng, hướng về kháng chiến với một niềm tin sắt đá. Đến cuối truyện, hình ảnh lá cờ càng trở nên ý nghĩa hơn bao giờ hết bởi nó là minh chứng cho thấy những người nông dân nghèo khổ, lầm than kia đã được giác ngộ, họ sẽ đứng lên đấu tranh để giành lại độc lập, tự do cho đất nước, hạnh phúc, ấm no cho bản thân.
Ngoài ra, giọng điệu tự sự xen lẫn trữ tình cũng góp phần tạo nên thành công cho tác phẩm. Giọng điệu của Kim Lân vừa xót xa thương cảm trước nỗi khổ của con người, vừa trân trọng, ngợi ca vẻ đẹp của tâm hồn con người. Chính giọng điệu này đã khiến cho lời văn của ông trở nên gần gũi, chân thực, giàu sức truyền cảm hơn.
Cuối cùng, Kim Lân đã vận dụng triệt để thủ pháp đối lập, tương phản trong việc xây dựng nhân vật, miêu tả tính cách nhân vật. Sự đối lập giữa ngoại hình và tâm hồn Thị, giữa ngoại hình và tính cách của Tràng. Hay sự đối lập giữa quá khứ và hiện tại của nhân vật ông Hai. Tất cả đều được Kim Lân khai thác một cách triệt để nhằm làm nổi bật chủ đề của tác phẩm.
Như vậy, bằng tài năng của một cây bút văn xuôi hàng đầu của nền văn học hiện đại Việt Nam, Kim Lân đã đem đến cho bạn đọc một tác phẩm có giá trị nhân văn sâu sắc. Qua đó, chúng ta càng thêm thấu hiểu, trân trọng hơn về tình yêu thương, tấm lòng cao cả của những người nông dân nghèo khổ.