Trong một bài viết, nhà văn Nguyễn Minh Châu đã từng nói: “Nhà văn tồn tại ở trên đời trước hết để làm công việc giống như kẻ nâng giấc cho những con người bị cùng đường tuyệt lộ, bị cái ác hoặc số phận đen đủi dồn đến chân tường… Nhà văn tồn tại ở trên đời để bênh vực cho những con người không có ai để bênh vực”. Có thể thấy, nhiệm vụ của nhà văn chính là phản ánh cuộc sống và bảo vệ con người. Và trong các sáng tác của mình, Nguyễn Minh Châu cũng luôn hướng ngòi bút vào con người. Đặc biệt qua truyện ngắn Chiếc thuyền ngoài xa, ta càng cảm nhận được rõ nét hơn điều này.
Truyện ngắn Chiếc thuyền ngoài xa ban đầu được in trong tập Bến quê năm 1985 sau đó được nhà văn lấy làm tên chung cho cả tuyển tập truyện ngắn in năm 1987. Trong đó có 10 truyện, tất cả đều xoay quanh đề tài con người với môi trường thiên nhiên thường ngày mà giàu chất triết lý nhân sinh. Truyện ngắn Chiếc thuyền ngoài xa tiêu biểu cho phong cách tự sự - triết lí của Nguyễn Minh Châu. Tác giả đã gửi gắm thông điệp về cách nhìn nhận các vấn đề của cuộc sống một cách khách quan, đa chiều qua hình ảnh Phùng – một nghệ sĩ nhiếp ảnh đi chụp ảnh cho bộ lịch về cảnh biển, trong chuyến đi ấy anh đã gặp nhiều điều bất ngờ.
Phùng là một người yêu nghề, khi được giao nhiệm vụ chụp một bức ảnh đẹp về thuyền và biển cho bộ lịch, anh đã rất hào hứng. Anh muốn tìm tới những vùng đất mới, khám phá vẻ đẹp ẩn giấu của nó. Phùng đã tới một vùng biển từng là chiến trường cũ của anh để mong tìm được một bức ảnh ưng ý. Sau mấy buổi sáng "phục kích" nhưng chưa chụp được tấm nào, Phùng nghĩ chắc phải đợi đến mùa trăng tới. Nhưng rồi một buổi sáng sớm, Phùng phát hiện ra một khung cảnh thật đẹp: "Trước mặt tôi là một bức tranh mực tàu của một danh họa thời cổ. Mũi thuyền in một nét mơ hồ lòe nhòe vào bầu sương mù trắng như sữa có pha đôi chút màu hồng hồng do ánh mặt trời chiếu vào. Vài bóng người lớn lẫn trẻ con ngồi im phăng phắc như tượng trên chiếc mui khum khum, đang hướng mặt vào bờ". Khung cảnh ấy khiến trái tim người nghệ sĩ như rung lên vì một nỗi xúc động thiêng liêng khó tả. Bởi lẽ suốt đời cầm máy ảnh, Phùng chưa bao giờ được thấy một cảnh đắt trời cho như thế. Cảnh vật đơn giản thôi nhưng lại đẹp vô cùng! Vẻ đẹp ấy vừa hoang sơ, hùng vĩ lại gần gũi, thân thuộc biết bao. Nó gợi lên thứ tình yêu quê hương, xứ sở tha thiết, sâu nặng. Thế nhưng đúng lúc ấy, Phùng lại bắt gặp một cảnh hoàn toàn đối lập với cảnh lúc nãy: Người đàn bà thô kệch xấu xí kia dám đánh chồng, đánh bằng tay không, giữa thanh thiên bạch nhật. Người đàn ông thì dùng sức mạnh của gã đàn ông vũ phu đánh trả lại người vợ. Một cảnh tượng thật khủng khiếp! Người đàn bà được mời đến tòa án huyện để chánh án Phú đề nghị chị ly hôn với lão đàn ông độc ác ấy. Chị van xin, khóc lóc, xin chánh án đừng buộc chị phải bỏ chồng. Những lời tâm sự của người đàn bà ở tòa án huyện đã khiến Phùng và Đẩu ngạc nhiên. Hóa ra, người phụ nữ tưởng chừng cam chịu, nhẫn nhục kia lại là người hiểu sâu sắc lẽ đời. Chị không muốn bỏ chồng bởi nếu bỏ chồng cũng đồng nghĩa với việc từ bỏ phương kế mưu sinh duy nhất. Ròng rã bao nhiêu năm nay, nhờ đôi vai lực lưỡng của người đàn ông mà gia đình chị có chỗ nương tựa, những đứa con của chị có nơi để gọi là nhà. Chị chấp nhận những trận đòn roi để giữ gìn hạnh phúc gia đình cho các con. Hơn nữa, người chồng của chị vốn hiền lành nhưng khi say rượu lại trở thành một con người khác. Chị không hề oán trách chồng nửa lời. Đó là một người phụ nữ thấu hiểu lẽ đời, giàu lòng vị tha và thương con vô hạn. Câu chuyện của người đàn bà ở tòa án huyện đã giúp Phùng và Đẩu vỡ lẽ ra nhiều điều. Từ câu chuyện ấy, Phùng đã nghiệm ra rằng cần có một cái nhìn đa diện, đa chiều để hiểu đúng bản chất của mọi sự việc, hiện tượng trong cuộc sống. Không nên nhìn mọi việc một cách hời hợt, bên ngoài. Đồng thời, tác giả còn khẳng định rằng: Cần phải có một cái nhìn thấu hiểu và cảm thông với những người phụ nữ, đặc biệt là những người phụ nữ có số phận bất hạnh. Họ là nạn nhân của bạo lực gia đình, của sự nghèo khổ, lạc hậu. Điều đáng quý là họ vẫn luôn khao khát hạnh phúc, dù chỉ là nhỏ nhoi. Qua câu chuyện của người đàn bà làng chài, chúng ta thêm trân trọng những người phụ nữ Việt Nam, những người mẹ, người vợ tần tảo, giàu đức hi sinh.