phần:
câu 1: Đoạn trích trên được viết theo thể thơ song thất lục bát.
câu 2: Các chi tiết, hình ảnh chỉ hành động của người chinh phụ trong đoạn trích: \n- áo chàng đỏ tựa ráng pha,\n- ngựa chàng sắc trắng như là tuyết in.\n- tiếng nhạc ngựa lần chen tiếng trống,\n- giáp mặt rồi phút bỗng chia tay.\n- Hà Lương chia rẽ đường này,\n- Bên đường trông lá cờ bay ngùi ngùi.\n- Quân trước đã gần ngoài doanh liễu,\n- Ngựa sau còn khuất nẻo tràng dương.\n- Chàng thì đi cõi xa mưa gió,\n- Thiếp thì về buồng cũ chiếu chăn.\n- Đoái trông theo đã cách ngăn,\n- Tuôn màu mây biếc trải ngần núi xanh.\n- Chốn Hàm Dương chàng còn ngoảnh lại,\n- Bến Tiêu Tương thiếp hãy trông sang.\n- Khói Tiêu Tương cách Hàm Dương,\n- Cây Hàm Dương cách Tiêu Tương mấy trùng.\n- Cùng trông lại mà cùng chẳng thấy,\n- Thấy xanh xanh những mấy ngàn dâu.\n- Ngàn dâu xanh ngắt một màu,\n - Lòng chàng ý thiếp ai sầu hơn ai?
câu 3: Nội dung chính của đoạn trích: tâm trạng buồn bã, lưu luyến khi phải chia tay của đôi trai gái; sự nhớ nhung, đau khổ của họ khi phải xa cách.
câu 4: Câu hỏi tu từ có tác dụng nhấn mạnh sự vô vọng khi chờ đợi, ngóng trông; thể hiện tâm trạng buồn đau, xót xa, tiếc nuối cho mối tình dang dở.
câu 5: Em hoàn toàn đồng tình với quan điểm đó bởi vì: Chinh phụ ngâm khúc là tiếng nói đồng cảm sâu sắc của tác giả đối với cả người ra đi (chinh phu) và người ở lại (chinh phụ), thể hiện sự trân trọng khát vọng hạnh phúc đôi lứa bình dị của họ trong xã hội phong kiến đương thời.
phần:
câu 1: Đoạn trích “Chinh phụ ngâm khúc” đã thể hiện nỗi cô đơn, buồn tủi và khát khao hạnh phúc của người vợ trẻ có chồng đi lính. Đoạn thơ mở đầu bằng hình ảnh nhân vật trữ tình “thăm thẳm đường lên bằng trời” gợi ra không gian rộng lớn, mênh mông, vô tận. Trong không gian ấy, hình ảnh người chinh phụ xuất hiện với những hành động như “ngọn đèn”, “chong đèn”, “đèn chẳng biết”. Những hành động này cho thấy sự lặp lại, quẩn quanh, vô định của người chinh phụ. Người chinh phụ ngồi trong phòng kín, một mình đối diện với ngọn đèn chong đêm. Ngọn đèn là hình ảnh ẩn dụ cho tâm trạng cô đơn, lẻ loi của người chinh phụ. Tiếp theo, tác giả sử dụng biện pháp so sánh để nhấn mạnh nỗi nhớ mong, khắc khoải của người chinh phụ: “Lòng này gửi gió đông có tiện?/Nghìn vàng xin gửi đến non Yên”. Gió đông là gió mùa xuân, tượng trưng cho sự tươi mới, hy vọng. Người chinh phụ muốn gửi lòng mình vào gió đông, mong mỏi được gặp lại chồng ở nơi xa. Tuy nhiên, điều đó là không thể vì người chồng đang ở nơi chiến trận đầy hiểm nguy. Câu hỏi tu từ “Có tiện chăng?” thể hiện sự băn khoăn, trăn trở của người chinh phụ. Cuối cùng, người chinh phụ quyết định nhờ gió đông mang lời nhắn đến núi Yên, nơi chồng đang đóng quân. Hình ảnh “nghìn vàng” là hình ảnh ước lệ, tượng trưng cho tấm lòng thành kính, trân trọng của người chinh phụ. Như vậy, qua đoạn thơ trên, ta có thể thấy rằng, tác giả đã sử dụng ngôn ngữ giản dị, mộc mạc, giàu sức biểu cảm để diễn tả tâm trạng cô đơn, buồn tủi và khát khao hạnh phúc của người chinh phụ.